Nhận định về đề thi chính thức môn Ngữ văn Kỳ thi tốt nghiệp THPT 2022

Giáo dục, Tuyển sinh | 11:50:00 07/07/2022

TNV - Một số nhận định do TS. Trịnh Thu Tuyết -  Giáo viên hệ thống giáo dục HOCMAI chia sẻ

Đề thi chính thức môn Ngữ văn kì thi TNTHPT năm 2022 bám sát cấu trúc của đề thi tham khảo do Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố. Cụ thể như sau:

Phần I. Đọc hiểu (3 điểm) gồm 4 câu hỏi phân loại theo ba mức độ nhận thức.

Hai câu đầu (câu 1 và 2) đều là câu hỏi dừng ở mức độ nhận biết: câu 1 yêu cầu xác định thể thơ; câu 2 yêu cầu nhận biết yếu tố từ loại trong 4 câu thơ đầu – đó là những yêu cầu dừng lại ở mức độ thuần túy nhận biết và không hề làm khó cho thí sinh. Dù như quan điểm của dư luận nói chung, số lượng 2 câu hỏi nhận biết đã làm bớt đi 1 mức độ nhận thức trong 4 câu hỏi Đọc hiểu; và phần nào hạ thấp khả năng nhận thức của phần đông thí sinh. Nên chăng, từ những kì thi sau, số lượng 4 câu Đọc hiểu nên phân bổ đều theo mức tăng dần của 4 mức độ nhận thức: Nhận biết – Thông hiểu – Vận dụng – Vận dụng cao.

Câu 3 là câu hỏi ở mức độ vận dụng, yêu cầu thí sinh vận dụng những kiến thức Tiếng Việt, tu từ để phân tích và làm rõ tác dụng của biện pháp tu từ so sánh trong đoạn thơ – câu hỏi này không khó nhưng đòi hỏi thí sinh phải phân tích được đồng thời cả giá trị biểu đạt và giá trị biểu cảm của hai phép so sánh “như sao trời mát mắt…như lửa thiêng liêng…

Câu 4 là câu vận dụng cao, yêu cầu thí sinh nhận xét về những suy ngẫm của tác giả về ý nghĩa sự hi sinh của tuổi trẻ được thể hiện trong đoạn trích. Câu hỏi này đòi hỏi thí sinh phải nhận ra được những suy ngẫm của tác giả về ý nghĩa sự hi sinh của tuổi trẻ đối với đất nước, chủ yếu thể hiện trong 6 câu cuối đoạn, đồng thời thể hiện quan điểm riêng của mình để có thể nhận xét một cách sâu sắc, thấu đáo với cả sự chia sẻ hoặc phản biện. Tuy nhiên, câu hỏi này có thể sẽ đưa đến những cách trả lời chung chung, hời hợt nếu thí sinh không nhận ra được suy ngẫm của tác giả và bản thân không có tư duy độc lập.

Nhìn chung, phần Đọc hiểu khá vừa sức với thí sinh nhưng có thể sẽ khó tìm được những bài làm sáng tạo, độc đáo, trước hết bởi ngữ liệu là một đoạn thơ chưa thật sự đặc sắc cả về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật khi nói về tuổi trẻ và sự hi sinh của tuổi trẻ với đất nước; sau đó là các câu hỏi của phần vận dụng, vận dụng cao chưa thực sự đặt ra những vấn đề có khả năng khơi gợi những hướng tư duy sâu sắc, mới mẻ cho thí sinh.

Phần II – Làm văn (7,0 điểm): Giữ nguyên cấu trúc quen thuộc, gồm 2 phần: Viết đoạn văn nghị luận xã hội (2,0 điểm) và bài nghị luận văn học (5,0 điểm).

Câu 1 (2,0 điểm):  Câu lệnh đã cung cấp đầy đủ và chính xác các yêu cầu cụ thể để thí sinh có thể viết một đoạn văn với dung lượng khoảng 200 chữ về một khía cạnh của vấn đề rút ra từ đoạn trích của phần đọc hiểu, đó là yêu cầu “Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc tiếp bước các thế hệ đi trước”. Nếu nhìn tổng thể những khía cạnh có thể yêu cầu nghị luận về một vấn đề như: biểu hiện, nguyên nhân, ý nghĩa/hậu quả, giải pháp, bài học nhận thức và hành động cho bản thân… thì yêu cầu “trình bày suy nghĩ về trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc tiếp bước các thế hệ đi trước” hướng tới khía cạnh cuối cùng – đó là liên hệ thực tế với nhận thức và hành động của bản thân và cộng đồng, cụ thể là của thế hệ trẻ. Yêu cầu này có thể đưa đến những cách suy nghĩ xúc động, chân thành nhưng không ngoại trừ những bài viết chung chung, hô khẩu hiệu, sáo rỗng…Hơn thế nữa, nếu thí sinh không đọc kĩ câu lệnh “trình bày suy nghĩ của anh/chị về trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc tiếp bước các thế hệ đi trước”, có thể các em sẽ nhầm lẫn sang việc trình bày suy nghĩ về trách nhiệm của thế hệ trẻ với đất nước. Câu lệnh cũng có thể mở ra những suy nghĩ sâu sắc cho thí sinh xung quanh cách hiểu về việc “tiếp bước thế hệ đi trước” - bao hàm cả tiếp nhận những giá trị của thế hệ trước và phản biện với những bất cập, lạc hậu để có thể phát triển.

Câu 2 (5,0 điểm): Câu nghị luận văn học vẫn sử dụng cấu trúc đề quen thuộc: sau đoạn trích của truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một câu lệnh có 2 vế tương ứng với 2 yêu cầu: phân tích đoạn trích trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” và “liên hệ hình ảnh chiếc thuyền trong đoạn trích với hình ảnh chiếc thuyền đang chống chọi với sóng gió giữa phá được miêu tả trong truyện để rút ra thông điệp về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống”.

Đoạn trích ngắn miêu tả phát hiện thứ nhất của Phùng về “chiếc thuyền ngoài xa” – “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh” với suy nghĩ, cảm xúc và những nhận thức, phát hiện mới mẻ, bất ngờ về sức mạnh kì diệu của cái Đẹp – đó là yêu cầu vừa sức với thí sinh trong đề thi có thời lượng 120 phút cho 3 câu. Yêu cầu thứ hai đề cập đến một trong những giá trị của tình huống nhận thức cũng là đơn vị kiến thức quen thuộc với thí sinh, và có thể mở ra những suy nghĩ sâu sắc độc đáo hơn về  “mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống”. Câu NLVH tuy đề cập những đơn vị kiến thức cơ bản và quen thuộc nhưng khi đặt ra sự liên hệ với hình ảnh con thuyền trong hai thời điểm (đầu và cuối truyện), trong 2 cự li (chiếc thuyền khi ở ngoài khơi xa, được cảm nhận như một cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh; và chiếc thuyền đang vật vã chống chọi với sóng gió giữa cơn bão biển dữ dội ở cuối truyện, gợi ra những suy tư bất an về thân phận con người), thì đã tạo ra một góc nhìn tương đối mới mẻ, có khả năng khơi gợi hứng thú và những suy nghĩ sâu sắc cho thí sinh.

Nhìn chung, đề thi Ngữ văn trong kì thi TNTHPT 2022 đảm bảo đúng các yêu cầu về nội dung, hình thức của một đề thi tốt nghiệp. Cũng như nhiều năm trước, đề thi vừa sức, quen thuộc, hơn thế nữa, do mô hình cơ bản không thay đổi nên các kiểu dạng câu hỏi không bất ngờ với thí sinh. Khả năng phân loại của đề vẫn là sự phân loại của các mức độ đọc hiểu và cảm thụ văn bản, sự phân loại được ghi nhận bởi cách đánh giá tinh tế, chính xác của giám khảo.

Sau đây là một số gợi ý lời giải đề thi tốt nghiệp môn Văn do Tổ Ngữ Văn – Hệ thống giáo dục HOCMAI cho các bạn học sinh có thể tham khảo:

Phần I: Đọc hiểu

Câu 1: Thể thơ: Tự do.

Câu 2: Tính từ miêu tả vẻ đẹp: “trong”, “tinh khiết”, “khỏe”, “mơn mởn”.

Câu 3: 

- Đoạn thơ đã sử dụng biện pháp so sánh: “tuổi trẻ" được so sánh với “sao trời” và “lửa thiêng liêng”.

Tác dụng của biện pháp so sánh:

-  Hữu hình hoá “tuổi trẻ” thành sự vật hữu hình là “sao trời mát mắt" và “lửa thiêng liêng” với trạng thái “cháy bùng".

- Làm rõ vẻ đẹp của “tuổi trẻ”, qua những hoàn cảnh khác nhau: “khi yên bình hạnh phúc”, “khi giặc giã đụng vào bờ cõi”.  

Câu 4: Đây là câu hỏi mở, học sinh nêu rõ quan điểm, suy nghĩ cá nhân. Cần lí giải thuyết phục, hợp lí. Sau đây là gợi ý:

+ Suy ngẫm về sự hi sinh của tuổi trẻ được tác giả thể hiện rõ nhất trong đoạn thơ cuối của phần trích.

+ Tuổi trẻ cống hiến, hi sinh và góp phần tạo nên những giá trị, lịch sử; từ đó thể hiện và đề cao tinh yêu nước, tinh thần dân tộc.

+ Khẳng định và đề cao những phẩm chất, lý tưởng cần có của con người trong mối quan hệ với quê hương, đất nước.

+ Khơi dậy ý thức về tình yêu nước và trách nhiệm với cộng đồng cho những thế hệ sau.

+ Thể hiện sự trân trọng, tự hào với thế hệ đi trước và niềm tin vào những thế hệ kế cận.

Phần II: Làm văn

Câu 1: Viết đoạn văn về trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc tiếp bước các thế hệ đi trước.

a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn

Thí sinh có thể trình bày đoạn văn (khoảng 200 chữ) theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoặc song hành.

b. Xác định đúng vấn đề nghị luận

Trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc tiếp bước các thế hệ đi trước.

c. Triển khai vấn đề nghị luận

Thí sinh có thể lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc tiếp bước các thế hệ đi trước. Có thể theo hướng:

- Thế hệ trẻ cần có cần có nhận thức đúng đắn về sức trẻ và thái độ trân trọng những di sản mà cha ông đã để lại, giữ gìn, phát huy những truyền thống tốt đẹp của thế hệ trước.

- Thế hệ trẻ cần có tư duy tỉnh táo để nhận thức được những bất cập, lạc hậu; tiếp nối có chọn lọc để thế hệ sau ngày càng phát triển hơn.

d. Chính tả, ngữ pháp

Bảo đảm chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.

e. Sáng tạo

Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.

Câu 2: 

Đề bài: Phân tích đoạn trích trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu); từ đó, liên hệ hình ảnh chiếc thuyền đang chống chọi với sóng gió giữa phá để rút ra thông điệp về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống.

a. Bảo đảm cấu trúc bài văn nghị luận

Mở bài nêu được vấn đề. Thân bài triển khai được vấn đề. Kết bài khái quát được vấn đề.

b. Xác định đúng vấn đề nghị luận

Nội dung và nghệ thuật đoạn truyện; liên hệ đến hình ảnh chiếc thuyền đang chống chọi với sóng gió giữa phá để rút ra thông điệp về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống.

c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm

Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; bảo đảm các yêu cầu sau:

* Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Minh Châu, tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa và đoạn trích.

* Phân tích đoạn trích:

- Phát hiện của Phùng về vẻ đẹp của chiếc thuyền:

+ Sau nhiều lần chờ đợi, bỏ qua những khung cảnh khác, cuối cùng người nghệ sĩ đã chụp được một bức ảnh nghệ thuật tuyệt vời với hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa. Con thuyền ấy trong buổi bình minh hiện ra rất đẹp, ấn tượng như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”.

+ Theo Phùng thì “toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích” từ màu sắc (“bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”) đến đường nét (“mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe”, “tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi”) và con người (“ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”).

- Phản ứng của người nghệ sĩ:

+ Phùng đã tràn đầy xúc động, sung sướng vô cùng khi bắt gặp được cảnh “đắt” trời cho. Anh cảm thấy choáng ngợp trước “cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn” và đứng trước cảnh ấy, anh trở nên “bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”.

+ Với người nghệ sĩ, khung cảnh đó chứa đựng “chân lí của sự hoàn thiện”, làm dấy lên trong Phùng những xúc cảm thẩm mĩ khi nghĩ đến lời đúc kết “Bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, khiến tâm hồn anh như được gột rửa, thanh lọc, trở nên trong trẻo, tinh khôi khi bắt gặp được hình ảnh của cái tận thiện, tận mĩ.

* Đánh giá chung:

- Qua đoạn trích, tác giả đã khơi lên một nội dung quan trọng liên quan đến tình huống độc đáo, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống.

- Tác giả lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn thích hợp (nghệ sĩ Phùng, nhân vật trong tác phẩm) làm cho câu chuyện trong đoạn trích trở nên khách quan, chân thực và đầy thuyết phục. Lời văn giản dị, đằm thắm mà sâu sắc, đa nghĩa, đầy dư vị.

* Liên hệ đến hình ảnh chiếc thuyền đang chống chọi với sóng gió giữa phá để rút ra thông điệp về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống.

- Hình ảnh hai chiếc thuyền gợi ra ý nghĩa: bức tranh thiên nhiên thì tuyệt mĩ nhưng bức tranh hiện thực thì trần trụi, nhọc nhằn. Từ sự phức tạp ấy, người nghệ sĩ cần nhận ra rằng để hiểu được sự thật đời sống không thể nhìn đơn giản, họ phải có cái nhìn đa chiều và sâu sắc hơn.

- Nghệ thuật phải miêu tả chân thực đời sống, nắm bắt cả những khoảnh khắc đẹp và chưa đẹp để có cái nhìn toàn diện về cả bề mặt lẫn chiều sâu của đời sống. Người sáng tác không thể lảng tránh sự thật về cuộc đời và số phận con người; phải trung thực và đầy bản lĩnh khi đã kiên quyết lựa chọn con đường “nghệ thuật vị nhân sinh”, phải có khả năng thấu hiểu đời sống, không thể nhìn cuộc đời bằng con mắt giản đơn, dễ dãi.

d. Chính tả, ngữ pháp

Bảo đảm chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.

e. Sáng tạo

Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.
 

BH.

 TP Hồ Chí Minh

Thời tiết

 

 



 

 

   Liên kết hữu ích

 
-  
Vattuminhanh.vn cung cấp vật tư quảng cáo

 - Mialock Việt Nam