Những vấn đề đặt ra và giải pháp đẩy mạnh tuyên truyền chuyển đổi số cho các doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa hiện nay

Thứ hai, 15/12/2025 - 22:53

Tuyên truyền chuyển đổi số cho các doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa tuy đạt được kết quả thiết thực, nhưng vẫn còn một số hạn chế, bất cập và đặt ra nhiều vấn đề. Bài viết này đánh giá những kết quả chính , chỉ rõ những vấn đề đặt ra và đề xuất giải pháp đẩy mạnh tuyên truyền chuyển đổi số cho các doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa hiện nay.

Từ khóa: Tuyên truyền, chuyển đổi số, doanh nghiệp, tỉnh Thanh Hóa

1. Khái quát kết quả tuyên truyền chuyển đổi số cho các doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa

Tính đến tháng 6/2025, tỉnh Thanh Hóa có 42.122 doanh nghiệp đăng ký thành lập, nhưng chỉ trên 21.350 doanh nghiệp thực sự đang hoạt động và phát sinh doanh thu. Riêng 6 tháng đầu năm 2025, tỉnh Thanh Hóa có 1.725 doanh nghiệp thành lập mới, đa số là doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa (vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng). Các loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp lớn, tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp FDI (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) đã tạo việc làm cho hơn 440.000 lao động. Trong đó, số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) chiếm đến 97%, đóng góp khoảng 6.862 tỷ đồng vào ngân sách nhà nước, chiếm 46% tổng thu nội địa 6 tháng đầu năm 2025, tạo ra khoảng 5 triệu việc làm. Số lượng doanh nghiệp lớn, tập đoàn, tổng công ty có khoảng 20 doanh nghiệp, chiếm khoảng 1% tổng số doanh nghiệp của tỉnh. Số lượng doanh nghiệp FDI hiện có 40 doanh nghiệp, chiếm khoảng gần 2 % tổng số doanh nghiệp đang hoạt động của tỉnh Thanh Hóa, sử dụng hơn 174.000 lao động[1].

Ngày từ khi có chủ trương của Trung ương, tỉnh Thanh Hóa luôn xác định chuyển đổi số (CĐS) là yêu cầu khách quan, xu thế tất yếu, giải pháp hiện đại để khơi thông tiềm năng trên tất cả các lĩnh vực; coi đây là bước quan trọng cho việc áp dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo AI vào công tác quản lý và các hoạt động kinh tế - xã hội thuận tiện, hiệu quả. Thực tế, tuyên truyền chuyển đổi số cho các doanh nhiệp tỉnh Thanh Hóa đến nay đạt được những kết quả quan trọng, cụ thể là:

Thứ nhất, về công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc truển khai các hoạt động tuyên truyền chuyển đổi số cho các doanh nghiệp

Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về CĐS, ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai vào điều kiện cụ thể của tỉnh. Trong đó, chỉ rõ: "Truyền truyền, quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng, hệ thống thông tin cơ sở, qua mạng Internet… nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân liên quan về hoạt động chuyển đổi số của doanh nghiệp; Bộ chỉ số đánh giá mức độ chuyển đổi số doanh nghiệp (mục tiêu, nội dung của Bộ chỉ số, lợi ích của doanh nghiệp, hướng dẫn áp dụng, hỏi đáp…); Cổng thông tin chỉ số chuyển đổi số doanh nghiệp (cách thức đăng ký, sử dụng phần mềm đánh giá, thông tin công bố, hỏi đáp…); hoạt động của Mạng lưới tư vấn kinh tế số và chuyển đổi số doanh nghiệp. Tuyên truyền, vinh danh các doanh nghiệp điển hình trên địa bàn tỉnh về thực hiện chuyển đổi số, các doanh nghiệp đạt thứ hạng cao trong mức độ chuyển đổi số và doanh nghiệp điển hình phát triển kinh tế số; các nội dung khác liên quan đến chuyển đổi số doanh nghiệp và phát triển kinh tế số"[2].

Tính từ năm 2025 đến nay, cấp tỉnh ban hành trên 30 văn bản chỉ đạo, truyền khai về CĐS, trong đó có nhiều văn bản trực tiếp chỉ đạo việc tuyên tuyền. Ban Chỉ đạo Chuyển đổi số tỉnh Thanh Hóa thực hiện tốt vai trò là nơi tổ chức triển khai nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch và giám sát công tác trên địa bàn tỉnh, từ cấp tỉnh đến cấp xã. UBND tỉnh và lãnh đạo chủ chốt trực tiếp chỉ đạo tuyên truyền qua các sự kiện, thúc đẩy nhận thức về chuyển đổi số cho doanh nghiệp. Sở Thông tin và Truyền thông (trước sát nhập) lan truyền chính sách, hướng dẫn thực hiện, xây dựng hành lang cho doanh nghiệp. Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa và Liên đoàn thương mại & công nghiệp Việt Nam (VCCI) chi nhánh Thanh Hóa nhiệm vụ là đơn vị chủ trì quá trình tổng hợp nhu cầu, lập dự toán kinh phí hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, phối hợp hướng dẫn triển khai chuyển đổi số. Hiệp hội Doanh nghiệp lên tiếng, chia sẻ khảo sát, nhận diện nhu cầu hiện tại của doanh nghiệp. Đoàn Thanh niên, đặc biệt là Đoàn Khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh, năng động đi đầu trong tuyên truyền và sáng tạo giải pháp số. Họ tổ chức "Ngày hội giới thiệu và tuyên dương các công trình, sản phẩm ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi giai đoạn 2021–2023". Doanh nghiệp trẻ, đoàn viên sáng tạo ra các ứng dụng như hệ thống hóa đơn điện tử Wesmart247, hỗ trợ doanh nghiệp điện nước, xây dựng mô hình IoT… Các hiệp hội doanh nghiệp, trường đại học địa phương (ĐH Hồng Đức, ĐH Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa) cũng tích cực tham gia nhiều hoạt động tuyên truyền.

Theo đó, tỉnh đã đổi mới phương thức làm việc, quy trình xử lý văn bản, hồ sơ công việc, giải quyết thủ tục hành chính từ môi trường làm việc trên giấy sang làm việc trên môi trường điện tử trong các cơ quan Nhà nước từ cấp tỉnh đến cấp xã, thực hiện trao đổi văn bản điện tử giữa chính quyền và doanh nghiệp. Tổng số lượt trao đổi, xử lý văn bản trên hệ thống là 4.049.850 lượt văn bản; tỷ lệ ký số cơ quan đạt 98%. Điều này góp phần không nhỏ vào việc đảm bảo tính công khai, minh bạch, nhanh chóng, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của các cấp ủy, chính quyền địa phương và hiệu quả trong công tác phục vụ người dân và doanh nghiệp.

Thứ hai, nhận thức của các đối tượng, đặc biệt là chủ doanh nghiệp và công nhân, tổ chức và cá nhân liên quan ngày càng nâng cao, tích cực hành động tuyên truyền về chuyển đổi số cho doanh nghiệp.

Qua các hoạt động tuyên truyền, nhận thức của các đối tượng được nâng cao rõ rệt. Doanh nghiệp hiểu được chuyển đổi số không chỉ là "mua máy tính, lập website" mà là đổi mới toàn diện trong quản lý, sản xuất, kinh doanh. Các chủ doanh nghiệp đã hiểu rằng, chuyển đổi số là "con đường sống còn", không chỉ là áp dụng phần mềm quản lý hay xây dựng website mà là quá trình tái cấu trúc toàn diện để tăng năng suất, giảm chi phí, mở rộng thị trường. Họ tích cực tham gia các hội thảo, lớp tập huấn, diễn đàn doanh nghiệp số, qua đó tiếp nhận tri thức mới, chia sẻ kinh nghiệm và chủ động tìm kiếm giải pháp phù hợp. Một số doanh nghiệp tiên phong đã trở thành hình mẫu, lan tỏa nhận thức và thúc đẩy các đơn vị khác noi theo (ví dụ: ứng dụng hóa đơn điện tử, chữ ký số, thương mại điện tử, phần mềm ERP – hệ thống quản trị doanh nghiệp tổng thể).

Với người lao động, công nhân, nếu như trước đây lo ngại "máy móc thay thế con người", thì nay nhiều người bắt đầu nhận thức rõ chuyển đổi số không nhằm loại bỏ lao động mà nhằm nâng cao năng suất và chất lượng công việc. Từ đó, họ sẽ tự nguyện, chủ động học tập, tham gia các khóa đào tạo kỹ năng số cơ bản như: sử dụng phần mềm quản lý sản xuất, nhập liệu điện tử, vận hành dây chuyền có ứng dụng công nghệ tự động. Sự thay đổi nhận thức này giúp công nhân trở thành "tác nhân tích cực" trong quá trình số hóa, thay vì bị động đối diện với công nghệ mới.

Với hiệp hội doanh nghiệp, công đoàn, đoàn thanh niên… ngày càng chủ động tổ chức các chương trình tuyên truyền, hội thảo, tọa đàm, phát động phong trào "Doanh nghiệp số - Công nhân số". Những hoạt động này không chỉ cung cấp thông tin, mà còn tạo diễn đàn trao đổi, xây dựng tinh thần đồng thuận, khích lệ tinh thần đổi mới sáng tạo.

Thứ ba, các nội dung tuyên truyền đa dạng, phong phú, bám sát chủ trưởng, chính sách của Đảng, Nhà nước và của tỉnh, thúc đẩy tiến độ chuyển đổi số cho các doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa

Thời gian qua, nội dung tuyên truyền về chuyển đổi số cho doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa tập trung vào các vấn đề chính sau đây:

(1) Tuyên tuyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật, sự hỗ trợ của Nhà nước và địa phương về chuyển đổi số; vai trò, lợi ích, tính tất yếu của chuyển đổi số. Trong đó, tập trung truyền đạt đầy đủ các văn bản, chiến lược quốc gia và kế hoạch chuyển đổi số tỉnh Thanh Hóa; giới thiệu cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp (tài chính, đào tạo, nền tảng số dùng chung, chương trình tập huấn…); hướng dẫn doanh nghiệp tiếp cận các gói hỗ trợ, quỹ khuyến khích đổi mới sáng tạo. Đặc biệt là tuyên truyền cuốn "cẩm nang chuyển đổi số doanh nghiệp" do Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thanh Hóa biên soạn, giúp các đối tượng hiểu rõ xu thế, lợi ích của doanh nghiệp khi tích cực CĐS[3].

(2) Tuyên truyền Bộ chỉ số đánh giá mức độ chuyển đổi số doanh nghiệp (mục tiêu, nội dung của Bộ chỉ số, lợi ích của doanh nghiệp, hướng dẫn áp dụng, hỏi đáp…); các doanh nghiệp điển hình trên địa bàn tỉnh về thực hiện chuyển đổi số; các nội dung khác liên quan đến chuyển đổi số doanh nghiệp và phát triển kinh tế số.

(3) Tuyên tuyền những kiến thức, kỹ năng và công cụ thực hành chuyển đổi số nhằm cung cấp kiến thức nền tảng, như: các bước trong lộ trình CĐS, tiêu chí đánh giá mức trưởng thành số; trang bị kỹ năng số cho lãnh đạo, quản lý, công nhân (quản trị dữ liệu, sử dụng phần mềm, an toàn thông tin); giới thiệu các công cụ, giải pháp công nghệ phù hợp với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Thanh Hóa.

(4) Tuyên tuyền việc ứng dụng số trong sản xuất, kinh doanh và quản trị, tập trung vào các lĩnh vực dễ áp dụng và tạo hiệu quả nhanh, như: quản trị nội bộ (kế toán, nhân sự, kho vận); bán hàng, marketing, thương mại điện tử; quản lý chuỗi cung ứng, truy xuất nguồn gốc nông – thủy sản; ứng dụng dữ liệu và báo cáo thông minh; khuyến khích chia sẻ các mô hình, sáng kiến điển hình tại doanh nghiệp địa phương.

(5) Tuyên truyền các nội dung về an toàn, an ninh mạng và văn hóa số, như: tầm quan trọng của bảo mật thông tin, bảo vệ dữ liệu cá nhân và dữ liệu doanh nghiệp; cảnh báo rủi ro (lừa đảo mạng, mất dữ liệu, tấn công mạng); hình thành văn hóa số trong doanh nghiệp: tuân thủ quy định, thói quen an toàn số, tinh thần đổi mới sáng tạo.

Thứ tư, sử dụng nhiều hình thức, phương pháp, phương tiện tuyên truyền, tạo được sức hấp dẫn, sự lan tỏa thông tin khá sâu rộng trong các doanh nghiệp và ngoài xã hội

Ở tỉnh Thanh Hóa sử dụng các kênh và hình thức tuyên truyền chủ yếu thông qua báo chí địa phương, gồm: 1- Báo Thanh Hóa, Đài PT-TH Thanh Hóa mở chuyên mục về CĐS chuyển tải thông tin về CĐS; 2- Cổng thông tin điện tử tỉnh và sở ngành cập nhật văn bản, kế hoạch, nhưng ít có nội dung trực quan, dễ tiếp cận; 3- Mạng xã hội, nhất là một số fanpage của Sở TT&TT Thanh Hóa, Hội Doanh nghiệp trẻ Thanh Hóa đã chia sẻ thông tin, nhưng chưa tạo thành chiến dịch đồng bộ; 4- UBND tỉnh phối hợp với Bộ TT&TT, Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh tổ chức các buổi tập huấn, tọa đàm, hội thảo khoa học để phân tích, thống nhất những vấn đề lý luận và thực tiễn. Tỉnh tổ chức hàng chục khóa bồi dưỡng và tập huấn cho hàng nghìn chủ doanh nghiệp và cán bộ tại nhiều cấp (từ tỉnh đến huyện, xã). Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh cũng thường xuyên phối hợp với các đơn vị, tổ chức, thực hiện nhiều sự kiện liên quan đến chuyển đổi số… Thông qua những sự kiện này, các doanh nhân, doanh nghiệp có điều kiện chia sẻ tiềm năng, cơ hội đầu tư, hợp tác kinh doanh, kinh nghiệm trong chuyển đổi số; đồng thời cũng giúp cộng đồng có thêm những kiến thức bổ ích về chuyển đổi số trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội...; 5- Hệ thống truyền thanh cơ sở tuy mới triển khai thí điểm ở một số huyện, chưa phủ rộng nhưng cũng đóng góp quan trọng vào các hoạt động tuyên truyền, trong đó có tuyên truyền CĐS cho doanh nghiệp trong tỉnh.

Thứ năm, làm thay thái độ và hành vi các đối tượng được tuyên truyền, tạo ra nhiều kết quả thực tế.

Không chỉ là truyền tải thông tin về chuyển đổi số cho các doanh nghiệp mà còn là khơi dậy sự thay đổi trong hành vi của doanh nghiệp; không chỉ làm cho tỷ lệ doanh nghiệp tham gia chuyển đổi số ngày càng tăng lên mà còn làm thay đổi cách thức hoạt động của doanh nghiệp[4]. Cũng từ việc tuyên tuyền, hình thành thói quen và lan tỏa văn hóa số trong nội bộ doanh nghiệp (minh bạch, chính xác, ra quyết định dựa trên dữ liệu), lan tỏa các mô hình điển hình. Một số doanh nghiệp công nghiệp, nông nghiệp, du lịch đã trở thành hình mẫu: ứng dụng công nghệ trong quản lý sản xuất, truy xuất nguồn gốc, bán hàng online… Các hoạt động tuyên truyền, góp phần gắn kết chính sách – doanh nghiệp – xã hội, giúp doanh nghiệp tiếp cận và tận dụng hiệu quả hơn các chính sách hỗ trợ của tỉnh (trợ cấp chữ ký số, chi phí phần mềm, đào tạo, đưa hàng lên sàn thương mại điện tử)[5].

Việc chuyển đổi số trong các doanh nghiệp Thanh Hóa không chỉ có tác động riêng đối với hoạt động của chính doanh nghiệp, mà còn tác động đến quá trình chuyển đổi số của toàn xã hội, ở nhiều lĩnh vực như giáo dục, xây dựng chính quyền số, số hóa lĩnh vực nông nghiệp, y tế, đào tạo nguồn nhân lực… Bởi vậy, tỉnh Thanh Hóa đặt mục tiêu trở thành một trong 10 địa phương dẫn đầu cả nước về chuyển đổi số trong năm 2025, với kỳ vọng kinh tế số chiếm tối thiểu 20% GRDP và ít nhất 50% doanh nghiệp có phát sinh thuế phải chuyển đổi số[6].

2. Những vấn đề đặt ra đối với tuyên truyền chuyển đổi số cho các doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa hiện nay

Chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong phát triển kinh tế - xã hội, giúp doanh nghiệp nâng cao năng suất, hiệu quả quản trị và năng lực cạnh tranh. Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền, nên đã giúp thay đổi nhận thức và tư duy quản trị doanh nghiệp; giảm sức ỳ và kháng cự trong tổ chức, doanh nghiệp; giúp kết nối chính sách – doanh nghiệp – xã hội, giúp doanh nghiệp tăng năng lực cạnh tranh; định hình văn hóa số trong doanh nghiệp; thúc đẩy hợp tác và hệ sinh thái số. Tuy nhiên, hoạt động tuyên truyền chuyển đổi số cho doanh nghiệp ở Thanh Hóa vẫn còn nhiều hạn chế. Nội dung tuyên truyền còn chung chung, thiên về phổ biến chính sách, thiếu hướng dẫn cụ thể cho từng loại hình doanh nghiệp. Hình thức truyền thông chưa đa dạng, còn thiếu sản phẩm trực quan như infographic, video clip; hoạt động tuyên truyền thiếu tính liên tục, chủ yếu theo phong trào, độ bao phủ chưa rộng, nhất là ở khu vực nông thôn, miền núi. Bên cạnh đó, thông tin tuyên truyền chưa thật sự gắn với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp, chưa tạo được những giải pháp "may đo" phù hợp. Thực tế tuyên truyền chuyển đổi số cho các doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa hiện nay đang đặt ra những vấn đề như:

Thứ nhất, yêu cầu đẩy mạnh và nâng cao chất lượng các hoạt động tuyên truyền về chuyển đổi số trong bối cảnh nhận thức của một bộ phận doanh nghiệp vẫn còn hạn chế.

Hiện nay, quá trình chuyển đổi số đang được xác định là xu thế tất yếu, là chìa khóa giúp doanh nghiệp nâng cao năng suất, hiệu quả quản trị và khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế số. Tuy nhiên, trên thực tế, nhận thức của nhiều doanh nghiệp – đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Thanh Hóa – về vai trò, ý nghĩa và lợi ích lâu dài của chuyển đổi số vẫn chưa đầy đủ. Không ít chủ doanh nghiệp còn cho rằng chuyển đổi số là hoạt động mang tính phong trào, do Nhà nước phát động, hơn là một nhu cầu tự thân gắn liền với sự sống còn của doanh nghiệp trong kỷ nguyên số. Một số khác e ngại về chi phí đầu tư, thiếu nhân lực chuyên môn và lo ngại rủi ro khi ứng dụng công nghệ mới, dẫn đến tâm lý thụ động, chờ đợi, hoặc chỉ làm ở mức hình thức. Thực trạng này cho thấy, công tác tuyên truyền về chuyển đổi số hiện nay chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu cả về nội dung lẫn phương thức thể hiện. Thông tin tuyên truyền vẫn còn dàn trải, chưa chú trọng truyền đạt bằng ngôn ngữ gần gũi, dễ hiểu, gắn với nhu cầu và đặc thù của từng nhóm doanh nghiệp. Một số hoạt động truyền thông vẫn mang tính hành chính, nặng tuyên truyền một chiều, thiếu chiều sâu phân tích và chưa khơi dậy được động lực tự thân trong cộng đồng doanh nghiệp.

Vì vậy, yêu cầu đặt ra là cần đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương thức tuyên truyền, chuyển từ việc "thông tin để biết" sang "truyền thông để hành động". Các cơ quan chức năng và tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp cần tập trung xây dựng thông điệp truyền thông thuyết phục, có cơ sở khoa học, đồng thời thể hiện bằng hình thức sinh động, dễ tiếp cận như video ngắn, đồ họa, podcast, diễn đàn trực tuyến hoặc câu chuyện điển hình về doanh nghiệp chuyển đổi số thành công. Bên cạnh đó, cần tăng cường các hoạt động đối thoại, hội thảo, tập huấn, hướng dẫn thực hành, giúp doanh nghiệp thấy được lợi ích cụ thể của chuyển đổi số trong từng khâu sản xuất – kinh doanh.

Thứ hai, xu thế số hóa diễn ra với tốc độ nhanh, cường độ ngày càng mạnh trong khi việc đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền chưa theo kịp

Hiện nay nhiều nội dung, chương trình tuyên truyền còn mang tính khái quát, thiên về phổ biến chủ trương, chính sách chung, thiếu ví dụ cụ thể hoặc mô hình điển hình từ chính các doanh nghiệp Thanh Hóa. Do đó, hiệu quả thuyết phục chưa cao, doanh nghiệp khó hình dung con đường và cách thức chuyển đổi phù hợp với mình. Các hoạt động tuyên truyền về chuyển đổi số phần lớn vẫn dựa vào các kênh truyền thống như hội nghị, bản tin, phát thanh, truyền hình; trong khi đó, việc khai thác nền tảng số, mạng xã hội, podcast, video ngắn... còn hạn chế. Điều này khiến khả năng lan tỏa thông tin chưa tương xứng với tiềm năng công nghệ hiện nay. Dù có khoảng gần 30% doanh nghiệp đã chuyển đổi số (tỷ lệ tăng trưởng ổn định so với năm trước), nhiều doanh nghiệp vẫn chưa xây dựng được chiến lược rõ ràng, chỉ mới "lần chân" vào môi trường số một cách sơ khai. Rất ít đơn vị có website thương mại điện tử, và thậm chí, khả năng bảo vệ thương hiệu trên mạng vẫn khá mong manh. Tuyên truyền – thông qua hội thảo, diễn đàn mô hình điển hình, các câu chuyện thành công – sẽ là chất xúc tác để tư duy số lan tỏa vào từng ngóc ngách doanh nghiệp.

Hiện nay, tỉnh Thanh Hóa có 21.306 hộ nghèo nên việc tiếp cận thông tin và sử dụng thiết bị thông minh gặp nhiều khó khăn; tỷ lệ thuê bao điện thoại di động sử dụng điện thoại thông minh trên địa bàn tỉnh còn thấp. Việc liên thông, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan Trung ương và địa phương còn mang tính thứ bậc, chưa đảm bảo nguyên tắc đồng đẳng, dẫn đến việc thiếu tính kế thừa như cơ sở dữ liệu về cấp đổi giấy phép lái xe, về doanh nghiệp, về đất đai; nhận thức của doanh nghiệp, người dân trong thực hiện CĐS chưa cao; các doanh nghiệp chưa chủ động tham gia hoạt động CĐS dẫn đến tỷ lệ ứng dụng dịch vụ công phục vụ người dân doanh nghiệp chưa được cải thiện nhiều; cán bộ phụ trách công tác CĐS tại các đơn vị trực thuộc là kiêm nhiệm, không có chuyên môn lĩnh vực công nghệ thông tin do đó trong quá trình xử lý các vấn đề mang tính chuyên môn cao gặp rất nhiều khó khăn.

Thứ ba, sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong hoạt động tuyên truyền còn thiếu đồng bộ trong khi thực tiễn muốn nâng cao chất lượng tuyên truyền cần có sự phối kết hợp đồng bộ, chặt chẽ, nhịp nhàng.

Các chương trình truyền thông thường do từng ngành, từng cấp triển khai riêng lẻ, chưa có cơ chế phối hợp, chia sẻ dữ liệu và thông tin giữa cơ quan quản lý, báo chí và hiệp hội doanh nghiệp. Việc thiếu tính thống nhất làm giảm hiệu quả và sức mạnh tổng hợp của hoạt động tuyên truyền. Thực tế đó đặt ra nhiều vấn đề, như: Làm thế nào để biến tuyên truyền từ "thông tin chính sách" sang "hướng dẫn hành động" và để tiếp cận doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ ở vùng nông thôn, miền núi, vốn ít sử dụng internet; cần cơ chế phối hợp giữa chính quyền – báo chí – hiệp hội – doanh nghiệp ra sao để tạo chiến dịch truyền thông đồng bộ; nên phát triển hệ sinh thái truyền thông số về CĐS doanh nghiệp như thế nào để bền vững...

Thứ tư, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực và kinh phí cho các hoạt động truyền thông chuyển đổi số còn hạn chế trong khi yêu cầu thực tiễn đòi hỏi cao hơn.

Hệ thống hạ tầng kỹ thuật chưa đồng bộ, dữ liệu giữa các ngành, giữa tỉnh và Trung ương chưa được kết nối liên thông. Các nền tảng phục vụ chuyển đổi số như chữ ký số, truy xuất nguồn gốc, hay phân tích dữ liệu còn thiếu và yếu, chưa đủ sức tạo ra bước đột phá. Đội ngũ cán bộ phụ trách truyền thông tại doanh nghiệp và cơ quan quản lý chưa được đào tạo bài bản về chuyển đổi số, thiếu kỹ năng sáng tạo nội dung và khai thác nền tảng số. Nguồn nhân lực số còn mỏng, trong khi kinh phí dành cho công tác truyền thông còn phân tán, phụ thuộc nhiều vào ngân sách nhà nước nên khó tổ chức các chiến dịch truyền thông quy mô, dài hạn và hiệu quả. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa thiếu nhân sự am hiểu công nghệ, thiếu tầm nhìn chiến lược, khiến việc triển khai chuyển đổi số còn rời rạc. Thủ tục hành chính, cơ chế hỗ trợ còn phức tạp, trong khi chi phí công nghệ cao khiến doanh nghiệp ngại đầu tư.

Thực tế, tại Thanh Hóa, khoảng 45% doanh nghiệp mới ứng dụng phần mềm kế toán, hóa đơn điện tử; 25% tham gia thương mại điện tử; chỉ 12% triển khai quản trị số toàn diện. Điều đó cho thấy tốc độ chuyển đổi số còn chậm, trong khi truyền thông đóng vai trò then chốt giúp doanh nghiệp hiểu, tin và hành động. Các chính sách hỗ trợ như cấp chữ ký số, tư vấn giải pháp hay đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tử chỉ phát huy hiệu quả khi được truyền thông sâu rộng, giúp doanh nghiệp tiếp cận và tận dụng được nguồn lực này.

Từ những vấn đề trên có thể thấy, tuyên truyền về chuyển đổi số cho các doanh nghiệp ở Thanh Hóa hiện nay đang đứng trước yêu cầu vừa phải đổi mới tư duy, vừa phải nâng cao năng lực thực hiện. Việc khắc phục các hạn chế về nhận thức, nội dung, phương thức và nguồn lực không chỉ giúp hoạt động truyền thông hiệu quả hơn mà còn góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy doanh nghiệp Thanh Hóa tham gia sâu rộng vào tiến trình chuyển đổi số quốc gia.

3. Một số giải pháp đẩy mạnh tuyên truyền chuyển đổi số cho các doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa thời gian tới

Trong bối cảnh chuyển đổi số đang trở thành động lực trọng yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh, việc đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến kiến thức và khuyến khích doanh nghiệp chủ động tham gia vào tiến trình này có ý nghĩa hết sức quan trọng. Để hoạt động tuyên truyền chuyển đổi số tại tỉnh Thanh Hóa đạt hiệu quả thiết thực, cần tập trung thực hiện một số nhóm giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức và năng lực truyền thông về chuyển đổi số cho các doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa.

Ở tầm chính quyền và tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp, cần xây dựng chiến lược truyền thông chuyển đổi số cấp tỉnh thông quan việc ban hành kế hoạch truyền thông dài hạn về chuyển đổi số doanh nghiệp đến năm 2030, xác định rõ mục tiêu, thông điệp, đối tượng, kênh truyền thông, và bộ công cụ truyền thông mẫu. Đồng thời, cần đẩy mạnh tuyên truyền qua báo chí, truyền hình, mạng xã hội của tỉnh, đặc biệt là tạo chuyên mục định kỳ trên đài, báo của tỉnh, Cổng thông tin điện tử tỉnh về "Doanh nghiệp số – Thanh Hóa số"; giới thiệu mô hình điển hình, cách làm hiệu quả, sai lầm cần tránh. Cùng với đó là tổ chức tập huấn, hội thảo, diễn đàn truyền thông số, mời chuyên gia công nghệ, chuyên gia truyền thông, doanh nghiệp tiên phong chia sẻ kinh nghiệm thực hành truyền thông chuyển đổi số; tập huấn kỹ năng sử dụng nền tảng số, sản xuất nội dung số, quảng bá sản phẩm số hóa. Ngoài ra, cần hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cho truyền thông doanh nghiệp nhỏ và vừa, có thể thông qua Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, hoặc chương trình xúc tiến thương mại – công nghiệp tỉnh.

Ở tầm doanh nghiệp, phải xem tuyên truyền chuyển đổi số là một phần trong chiến lược phát triển. Trước hết cần nâng cao nhận thức nội bộ, thoogn qua việc tổ chức truyền thông nội bộ (hội thảo, infographic, bản tin nội bộ, video ngắn) để toàn bộ nhân viên hiểu rõ ý nghĩa, lộ trình, lợi ích của chuyển đổi số. Khi nhân viên tin, họ sẽ trở thành "đại sứ truyền thông số" cho chính doanh nghiệp. Tiếp đó, cần xây dựng bộ phận hoặc nhân sự phụ trách truyền thông số. Nếu chưa có, có thể kiêm nhiệm nhưng cần được đào tạo kỹ năng về truyền thông, marketing số, quản trị nội dung, dữ liệu khách hàng, và đo lường hiệu quả truyền thông. Bên cạnh đó, cần ứng dụng nền tảng số để truyền thông, tăng cường sử dụng fanpage, YouTube, Zalo OA, TikTok, website doanh nghiệp, hệ thống CRM hoặc AI chatbot để quảng bá sản phẩm và chia sẻ hành trình chuyển đổi số của mình. Đồng thời cần coi trọng đo lường hiệu quả truyền thông bằng cách thiết lập các chỉ số (lượt tương tác, lượng truy cập, phản hồi tích cực, tỉ lệ chuyển đổi) để đánh giá mức độ lan tỏa và tác động đến nhận thức của nhân viên, khách hàng, đối tác.

Thứ hai, đa dạng hóa các kênh và hình thức tuyên truyền.

Để đa dạng hóa kênh và hình thức tuyên truyền chuyển đổi số ở Thanh Hóa, cần mở rộng hệ thống truyền thông đa kênh kết hợp giữa báo chí, mạng xã hội, cổng thông tin số và các sự kiện trực tiếp. Cần đổi mới nội dung theo hướng sinh động, trực quan hơn như video ngắn, câu chuyện thực tế, hình ảnh minh họa và sự tham gia của người ảnh hưởng.

Bên cạnh báo, đài và bản tin kinh tế, nên đẩy mạnh tuyên truyền trên nền tảng số như website, fanpage, ứng dụng di động; lồng ghép các ví dụ thành công của doanh nghiệp địa phương để tạo sức lan tỏa. Mạng xã hội như Facebook, Zalo, TikTok, YouTube cần được khai thác để tiếp cận nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa – đối tượng ít tiếp cận kênh chính thống. Các hình thức trực tiếp như tọa đàm, roadshow, triển lãm, "Ngày hội chuyển đổi số doanh nghiệp Thanh Hóa" giúp doanh nghiệp trải nghiệm thực tế công nghệ. Song song, cần xây dựng cổng thông tin hoặc ứng dụng "Thanh Hóa số dành cho doanh nghiệp" tập hợp tài liệu, video hướng dẫn, công cụ tự đánh giá mức độ sẵn sàng số.

Về mặt tổ chức, cần hình thành mạng lưới truyền thông viên chuyển đổi số gồm cơ quan quản lý, hiệp hội doanh nghiệp, trường đại học, đoàn thể và cơ quan báo chí để phối hợp sản xuất, chia sẻ nội dung. Đồng thời, huy động sinh viên báo chí, truyền thông, công nghệ thông tin tham gia hỗ trợ truyền thông thực tiễn cho doanh nghiệp. Cuối cùng, nên phát động phong trào "Doanh nghiệp chuyển đổi số – Truyền thông sáng tạo" nhằm tôn vinh các mô hình, chiến dịch tiêu biểu, tạo động lực đổi mới và lan tỏa tinh thần chuyển đổi số trong toàn tỉnh.

Thứ ba, đẩy mạnh phối hợp giữa các bên liên quan và phải xây dựng và phát huy đội ngũ tuyên truyền viên, chuyên gia đồng hành cùng doanh nghiệp.

Sở Khoa học và Công nghệ (bộ phận của Sở Thông tin và Truyền thông trước đây), Sở Kế hoạch và Đầu tư, Liên đoàn Lao động, Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh và các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp cần xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ trong việc tổ chức các chương trình tuyên truyền, hội thảo, diễn đàn, tập huấn, tư vấn trực tiếp cho doanh nghiệp. Qua đó, giúp doanh nghiệp tiếp cận thông tin chính thống, hiểu rõ lộ trình, chính sách, cũng như các công cụ hỗ trợ chuyển đổi số của tỉnh và Chính phủ. Hình thành mạng lưới "tư vấn viên chuyển đổi số" tại các hiệp hội, khu công nghiệp, cụm doanh nghiệp, có nhiệm vụ phổ biến kiến thức, chia sẻ kinh nghiệm, hướng dẫn doanh nghiệp lựa chọn giải pháp phù hợp với quy mô và điều kiện thực tế.

Thứ tư, tăng cường truyền thông chính sách và hỗ trợ truyền thông cho doanh nghiệp.

Trước hết, cần tăng cường truyền thông chính sách, đặc biệt là chủ động truyền thông ngay từ khâu xây dựng chính sách. Khi ban hành chính sách mới (hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số…), các sở ngành cần có kế hoạch truyền thông đi kèm, không chỉ công bố mà còn giải thích, minh họa và đối thoại. Đa dạng hóa hình thức truyền thông chính sách, tăng tính tương tác và phản hồi, tổ chức đối thoại trực tuyến giữa chính quyền và doanh nghiệp... Tiếp đó, cần có sự hỗ trợ năng lực truyền thông doanh nghiệp như: đào tạo kỹ năng truyền thông số cho doanh nghiệp, hỗ trợ tư vấn truyền thông cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, Khuyến khích doanh nghiệp liên kết truyền thông... Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế phối hợp truyền thông công – tư, Phát huy vai trò báo chí địa phương, thiết lập mạng lưới truyền thông viên doanh nghiệp, xây dựng chương trình "Kết nối truyền thông – doanh nghiệp, Khen thưởng, tôn vinh doanh nghiệp và nhà báo đồng hành cùng truyền thông chính sách.

Thứ năm, đánh giá định kỳ hiệu quả truyền thông chuyển đổi số.

Trước hết cần xây dựng bộ tiêu chí đánh giá cụ thể và đo lường được. Truyền thông chuyển đổi số cần được lượng hóa bằng những chỉ số phản ánh mức độ nhận thức, hành động và lan tỏa trong cộng đồng doanh nghiệp bao gồm nhóm chỉ tiêu đầu vào (Input), nhóm chỉ tiêu kết quả (Output), nhóm chỉ tiêu tác động (Outcome) như lượt tiếp cận, tương tác, chia sẻ thông tin trên các nền tảng số; số doanh nghiệp được tập huấn, tham gia hoạt động truyền thông; mức độ nhận biết của doanh nghiệp về chủ trương, chính sách chuyển đổi số.

Thiết lập cơ chế đánh giá định kỳ, có thể theo chu kỳ 6 tháng hoặc quý, kết hợp định lượng và định tính. Đánh giá nội bộ (các sở, ngành, hiệp hội doanh nghiệp tự rà soát hoạt động truyền thông mình phụ trách, nộp báo cáo ngắn gọn theo mẫu thống nhất hoặc đánh giá độc lập) hoặc liên ngành (UBND tỉnh giao một đơn vị độc lập (ví dụ Trường Đại học Hồng Đức, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, hoặc nhóm chuyên gia của Sở KH &CN) tiến hành khảo sát định kỳ 6 tháng/lần. Công bố kết quả công khai thông qua báo cáo ngắn gọn, minh bạch trên Cổng thông tin tỉnh, để doanh nghiệp thấy nỗ lực của chính quyền và cùng đóng góp phản hồi.


[1] Số liệu từ Báo cáo mới nhất của Sở Tài chính tỉnh Thanh Hóa.Doanh nghiệp nhà nước sử dụng khoảng 13.658 lao động; Doanh nghiệp tư nhân sử dụng hơn 217.622 lao động; Doanh nghiệp FDI sử dụng khoảng 184.020 lao động. Ngoài ra, có thêm 2.004 lao động nước ngoài làm việc tại tỉnh.

[2] Chương trình số 54/CTr-UBND ngày 03/3/2022 của UBND tỉnh xác định Chỉ số đánh giá mức độ chuyển đổi số doanh nghiệp và hỗ trợ thúc đẩy doanh nghiệp chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, tr.2. Hằng năm, 100% các sở, ban, ngành, UBND cấp huyện đều ban hành chương trình, kế hoạch thực hiện CĐS; 100% sở, ban, ngành cấp tỉnh và tương đương thành lập tổ giúp việc CĐS; 100% các đơn vị UBND cấp huyện (trước đây) thành lập Ban chỉ đạo CĐS. Đối với CĐS cấp xã, UBND tỉnh Thanh Hoá ban hành Quyết địnhsố 1829/QĐ-UBND về việc ban hành bộ tiêu chí CĐS cấp xã đến năm 2025 trên địa bàn tỉnh.

[3] Chuyển đổi số là tất yếu và là điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển; chỉ ra lợi ích cụ thể, như: tăng năng suất, giảm chi phí, mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh, minh bạch quản lý; mô hình thực tế từ các doanh nghiệp trong tỉnh đã áp dụng thành công (thương mại điện tử, hóa đơn điện tử, truy xuất nguồn gốc…).

[4] Tính đến đầu năm 2025, tỷ lệ doanh nghiệp chuyển đổi số đạt 29,65%; 100% doanh nghiệp áp dụng hóa đơn điện tử; nhiều doanh nghiệp đã đưa sản phẩm lên các sàn thương mại điện tử và sử dụng kênh số (livestream, mạng xã hội) để kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp nhỏ, hộ kinh doanh bắt đầu quen với thanh toán không tiền mặt, lưu trữ dữ liệu số, làm việc qua nền tảng trực tuyến.

[5] Một số mô hình chuyển đổi số được triển khai nhằm phục vụ người dân, doanh nghiệp được thuận tiện hơn, đơn giản hơn như mô hình làng số, mô hình thôn thông minh phục vụ du khách tra cứu, tìm hiểu thông tin về các điểm du lịch, du lịch tâm linh trên địa bàn các huyện; mô hình "Camera Nhân dân với an ninh trật tự" giám sát an ninh trật tự, an toàn giao thông. Bên cạnh đó, nó còn tạo sự liên thông giữa chính quyền, doanh nghiệp công nghệ và cộng đồng doanh nghiệp địa phương, góp phần vào mục tiêu chung của tỉnh, giúp Thanh Hóa trở thành một trong các địa phương nằm top 14 cả nước hoàn thành 100% dịch vụ công trực tuyến liên thông; kinh tế số đóng góp ngày càng lớn vào GRDP. Nhờ làm tốt các hoạt động tuyên truyềnm nên góp phần biến mục tiêu "50% doanh nghiệp có hoạt động chuyển đổi số vào năm 2025" thành hiện thực. Hệ thống phần mềm "Phản hồi Thanh Hóa" đã tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của tổ chức, cá nhân với tỷ lệ xử lý đúng hạn đạt trên 93%. Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính của tỉnh đã được chuyển đổi sang địa chỉ IPv6, đã được kết nối với Cổng dịch vụ công quốc gia. Hiện nay cả tỉnh cung cấp 1.805 dịch vụ công trực tuyến (900 dịch vụ công trực tuyến một phần và 905 dịch vụ công trực tuyến toàn trình) với tỷ lệ hồ sơ thủ tục hành chính được giải quyết trước và đúng hạn đạt trên 99,51%. Cổng dữ liệu mở của tỉnh Thanh Hóa với 250 cơ sở dữ liệu của 15 lĩnh vực; được xây dựng và vận hành hiệu quả nhằm chia sẻ, công khai các dữ liệu mở phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành và công khai, minh bạch thông tin của các cơ quan chính quyền cho người dân, doanh nghiệp.

[6] https://baothanhhoa.vn/doanh-nghiep-thanh-hoa-day-manh-chuyen-doi-so-220457.htm

Đến nay, 100% doanh nghiệp, hộ kinh doanh, thương nhân kinh doanh xăng dầu, 80% trung tâm thương mại, siêu thị trên địa bàn Thanh Hóa đã sử dụng hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế khởi tạo từ máy tính tiền; 6.500 doanh nghiệp đạt mức độ chuyển đổi số theo quy định; toàn tỉnh có 615 doanh nghiệp công nghệ số. Tỉnh triển khai các ứng dụng nền tảng số phục vụ người dân, như: nền tảng khám chữa bệnh từ xa (telehealth); KIOSK khám chữa bệnh thông minh; hồ sơ sức khỏe điện tử của người dân; các ứng dụng phát triển du lịch thông minh tại các khu, điểm du lịch trong toàn tỉnh; tích cực triển khai một số mô hình nổi bật về CĐS như mô hình làng số, thôn thông minh; số hóa các điểm du lịch; mô hình "Camera Nhân dân với an ninh, trật tự"... Toàn tỉnh cũng đã triển khai cấp hơn 500.000 chữ ký số cá nhân cho người dân, tốc độ tăng trưởng 300%, dẫn đầu cả nước… Đối với phát triển chính quyền số, toàn tỉnh hiện có 9.056/1.805 dịch vụ công trực tuyến, hồ sơ thủ tục hành chính giải quyết sớm và đúng hạn đạt trên 98%. Nền tảng tích hợp và chia sẻ dữ liệu cấp tỉnh (LGSP) tại địa chỉ ttps://lgsp.thanhhoa.gov.vn) được duy trì, hoạt động một cách thường xuyên, ổn định, hiện đang cung cấp 10 dịch vụ kết nối các phần mềm nội tỉnh và 11 dịch vụ kết nối bên ngoàiđã thực hiện khai báo mã định danh điện tử cho 2.588 đơn vị và đồng bộ lên hệ thống danh mục điện tử dùng chung của các cơ quan nhà nước (do Bộ Thông tin và Truyền thông quản lý).

Thạc sỹ Đới Sỹ Nam

Phó chủ tịch - Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Thanh Hoá