Biến khát vọng “Bắc – Nam sum họp” của Chủ tịch Hồ Chí Minh thành hiện thực

Thứ tư, 03/12/2025 - 08:00

Cụ thể hóa ước vọng thiêng liêng của Người thành hành động, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo quân và dân hai miền Nam Bắc đánh đuổi Mỹ, ngụy bằng vô vàn hành động linh hoạt, mưu trí, dũng cảm. Từ Nghị quyết 21 (10/1973) hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam của Trung ương Đảng đến sự quyết định bằng các chiến dịch mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh đã phản ánh tinh thần chiến đấu, hy sinh của tất cả các lực lượng với khát vọng lớn nhất là thống nhất non sông.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng dân tộc, người con vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Suốt cuộc đời Người chỉ có một ham muốn, ham muốn rất "bình dị", đó là: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành"[1]. Người đã đi xa, nhưng những cống hiến của Người về lý luận và thực tiễn cho sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là rất to lớn. Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy bỏng của mọi người dân Việt Nam yêu nước; là mục tiêu phấn đấu, thể hiện rõ trong mọi thời điểm và trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.

Có thể nói, trong lịch sử nhân loại, việc đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giành độc lập không phải là đặc điểm riêng có của một dân tộc nào, song thật hiếm có một dân tộc như dân tộc Việt Nam, phải thường xuyên đấu tranh chống lại nhiều kẻ thù mạnh hơn gấp bội để giành lại quyền độc lập. Đó là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm. Trong lịch sử Việt Nam, sự chia cắt cũng đã từng xảy ra như thời Đàng Ngoài - Đàng Trong kéo dài hơn 100 năm, bắt đầu từ thế kỷ XVI, nhưng có lẽ, thấm đẫm nỗi đau dân tộc nhất là sự chia cắt khi Hiệp định Giơ-ne-vơ (20/7/1954) được thực hiện. Theo hiệp định, đất nước Việt Nam chia thành 2 miền Nam - Bắc, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới quân sự tạm thời. Tuy nhiên, Mỹ thay Pháp nhảy vào Việt Nam, lập nên chính quyền tay sai Việt Nam cộng hòa và cùng nhau vi phạm Hiệp định Giơ-ne-vơ.

Đã từng bôn ba khắp năm châu, đã từng chứng kiến sự thống khổ của thân phận nô lệ, bị áp bức bất công của các dân tộc trên thế giới. Người luôn day dứt nỗi đau chia cắt và khát vọng thống nhất hiển hiện rõ nét trong nỗi niềm của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Chẳng phải ngẫu nhiên, đầu Xuân 1955, cây vú sữa do đồng bào miền Nam gửi tặng Bác lại được trồng trong vườn Phủ Chủ tịch. Bác luôn dành thời gian buổi sáng và sau ngày làm việc buổi chiều để chăm tưới cho cây vú sữa. Năm 1958, khi Bác chuyển về ở và làm việc tại nhà sàn, Người gợi ý chuyển cây vú sữa trồng cạnh để hàng ngày Bác được nhìn thấy quà của miền Nam, được gần đồng bào chiến sĩ miền Nam thân yêu. Năm 1962, Bác tiếp đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Văn Hiếu dẫn đầu ra thăm miền Bắc. Xúc động nhận những món quà của đồng bào miền Nam, Người đặt tay lên trái tim mình và nói: "Miền Nam yêu quý luôn ở trong trái tim tôi". Năm 1965, đoàn các anh hùng dũng sĩ miền Nam ra thăm miền Bắc, cả đoàn chạy ùa lại ôm lấy Bác trên đường Xoài Phủ Chủ tịch. Những giọt nước mắt sung sướng vỡ òa. Bác âu yếm nhìn các anh hùng dũng sĩ và nói: "Bác mong các cháu lắm, Bác nhớ đồng bào miền Nam lắm! Sao các cháu lại khóc? Bác cháu ta gặp nhau thì phải vui lên chứ?".

Trong một lần tiếp nữ phóng viên người CuBa năm 1969, Hồ Chủ Tịch đã nói: "Ở miền Nam Việt Nam, những người dưới 25 tuổi không biết nghĩa chữ Tự do. Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi"[2]. Trong những thời điểm kháng chiến chống Mỹ ác liệt nhất, gần như ngày nào, Người cũng gọi điện cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp để hỏi về tình hình miền Nam. Chẳng thế mà, những nghệ sĩ trưởng thành trong thời chiến đã ghi lại hình ảnh của Người những ngày tháng thao thức vì miền Nam: Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà; Miền Nam mong Bác nỗi mong cha.

Trước lúc đi xa, Người luôn khao khát được một lần đặt chân lên mảnh đất miền Nam. Bác nhiều lần đề nghị Bộ Chính trị bố trí để được thực hiện nguyện vọng ấy, nhưng vì sức khỏe, mong muốn ấy của Bác đã không thành hiện thực. Đặc biệt, lịch sử có ghi lại sự kiện rất cảm động vào năm 1963. Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa II, Bác từ chối nhận Huân chương Sao vàng và đề nghị: "Chờ đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc hòa bình thống nhất, Bắc - Nam sum họp một nhà, Quốc hội sẽ cho phép đồng bào miền Nam trao cho tôi Huân chương cao quý. Như vậy thì toàn dân ta sẽ sung sướng, vui mừng"[3].

Trong Di chúc của Hồ Chí Minh, khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và niềm tin tất thắng về cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân ta được Người nhắc đến nhiều lần, cháy bỏng hơn bao giờ hết: "Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể sẽ kéo dài mấy năm nữa. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.[4]"; "Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng 2 đế quốc to - là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc"[5].

Tại lễ truy điệu vĩnh biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 9-9-1969, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cả nước đã xin thề: Giương cao mãi ngọn cờ độc lập dân tộc, quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước để thỏa lòng mong ước của Người. Đem hết sức mình tiếp tục phấn đấu thực hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa cao đẹp mà Người đã vạch ra cho giai cấp công nhân và nhân dân ta, đem lại phồn vinh cho đất nước, hạnh phúc cho đồng bào.

Cụ thể hóa ước vọng thiêng liêng của Người thành hành động, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo quân và dân hai miền Nam Bắc đánh đuổi Mỹ, ngụy bằng vô vàn hành động linh hoạt, mưu trí, dũng cảm. Từ Nghị quyết 21 (10/1973) hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam của Trung ương Đảng đến sự quyết định bằng các chiến dịch mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh đã phản ánh tinh thần chiến đấu, hy sinh của tất cả các lực lượng với khát vọng lớn nhất là thống nhất non sông. Trên thực tế, nhìn nhận suốt chặng đường chống Mỹ, thắng lợi vẻ vang trong buổi trưa ngày 30/4 là sự hội tụ sức mạnh Việt Nam trên nhiều lĩnh vực (chính trị, quân sự, ngoại giao) với sự tham gia của nhiều lực lượng.

Chiến dịch Hồ Chí Minh thành công được đánh dấu bằng sự kiện "Sài Gòn thất thủ" (theo ngôn từ báo chí phương Tây), Miền Nam hoàn toàn giải phóng. Đó là những từ ngữ khẳng định thời điểm lịch sử có ý nghĩa hết sức quan trọng, là sự dồn nén biết bao đau thương, bi hùng trong hơn 20 năm kháng chiến. Sài Gòn lúc đó, người người đổ ra đường, ôm nhau mà khóc, những người lính "đi trong muôn ánh sao vàng rừng cờ tung bay". Giờ phút thiêng liêng ấy, ai cũng rưng rưng nhớ Bác, tưởng "như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng" (Phạm Tuyên). Lại nhớ, trước lúc đi xa, Người đã để lại Di chúc cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và tin tưởng: "Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng 2 đế quốc to - là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc"[6]. Lời Người năm ấy đã thành hiện thực sau đó chỉ ít năm. 30/4 đã trở thành ngày của sum họp, từ đó, lan tỏa các giá trị vững bền của dân tộc Việt Nam.

Quyết tâm đó của dân tộc ta đã được khẳng định rõ ràng tại Điều 1, Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013: "Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời." Giai đoạn trước mắt, những năm tới đã mở ra những cơ hội mới đồng thời cũng có nhiều thách thức mới đối với nhân dân ta trong thực hiện "điều mong muốn cuối cùng" của Bác nêu trong "Di chúc". Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã diễn ra rất nhanh, tác động rất mạnh đến tất cả các lĩnh vực trong xã hội, tạo nên những cơ hội lớn chưa từng có và cũng là những thách thức mới đối với sự phát triển của nước ta. Tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến nhanh, phức tạp và khó lường trước, nhưng xu thế hòa bình ổn định, hợp tác phát triển vẫn là xu thế lớn. Tình hình trong nước cũng có những thuận lợi và khó khăn mới. Tình hình chính trị - xã hội ổn định, kinh tế khởi sắc, đời sống nhân dân không ngừng được nâng lên, niềm tin và khát vọng phát triển của dân tộc, trở thành phong trào khởi nghiệp, sáng tạo…là những nguồn động lực quan trọng để phát triển đất nước tiến tới giàu mạnh. Năm 2025, Việt Nam đạt nhiều thành tựu kinh tế - xã hội nổi bật như dự kiến đạt và vượt 15/15 chỉ tiêu chủ yếu, với GDP ước tăng 8% và lạm phát được kiểm soát. Nền kinh tế có quy mô lớn hơn, xếp thứ 32 thế giới với GDP bình quân đầu người 5.000 USD. Các thành tựu khác bao gồm sự phát triển mạnh mẽ của hạ tầng, đột phá trong khoa học công nghệ và chuyển đổi số, cùng với đà phục hồi tích cực của doanh nghiệp và thương mại. Đồng thời, chúng ta cũng cần phải đoàn kết, vượt qua những nguy cơ mới. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong Đảng và xã hội chưa được đẩy lùi, là nguy cơ lớn gây mất ổn định chính trị, xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp, nguy cơ rơi vào "bẫy thu nhập trung bình" rất lớn. Trong lĩnh vực xã hội, phân hóa xã hội gia tăng, một số loại tệ nạn xã hội chưa được kiểm soát; nhiều vấn đề môi trường đặt ra chưa được giải quyết…Nhìn thẳng vào sự thật, xây dựng niềm tin và khát vọng phát triển của toàn dân tộc, phát huy dân chủ, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc để đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới là những giải pháp cơ bản để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, đưa đất nước đi lên.

Giữ vững môi trường hòa bình là mục tiêu chiến lược không chỉ trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, đối ngoại, mà còn là một nội dung trong tổng thể chính sách phát triển của đất nước. Xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh vững mạnh, sẵn sàng bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống đi đôi với việc phát triển quan hệ đối ngoại, hợp tác đối với các nước lớn, các nước trong khu vực và trên thế giới, thực sự Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì độc lập hòa bình và phát triển. Đó là việc bảo vệ nền độc lập, môi trường hòa bình từ xa, từ khi chưa có biến./.

ThS.GVC Nguyễn Quang Trung

Khoa xây dựng Đảng, Trường Chính trị Lê Duẩn


[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.187.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.674.

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.14, tr.80.

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.621.

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.612.

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.612.