TÓM TẮT
Nghiên cứu này tập trung vào việc đánh giá tác động của thể dục thể thao đến sức khỏe tinh thần của thế hệ gen Z Việt Nam. Nghiên cứu lựa chọn phân tích dữ liệu bằng hai phương pháp định lượng và định tính, bao gồm phỏng vấn sâu và khảo sát đối với mục tiêu nghiên cứu là những cá nhân thuộc thế hệ gen Z tại Việt Nam, nhằm đo lường sự thay đổi về sức khỏe tinh thần của họ trước và sau khi bắt đầu làm quen với việc chơi thể dục thể thao như một hoạt động sinh hoạt hàng ngày, từ đó đưa ra đánh giá tác động của thể dục thể thao đến sức khỏe tinh thần của gen Z. Nghiên cứu cho thấy tình trạng sức khỏe tinh thần của gen Z hiện nay và đưa ra kết luận thể dục thể thao sẽ có tác động tích cực đến sức khỏe tinh thần của gen Z Việt Nam, đồng thời mở ra hướng nghiên cứu mới về thể thục thể thao và sức khỏe tinh thần dành cho thế hệ gen Z.
TỪ KHÓA: Thể dục thể thao, Sức khỏe tinh thần, hạnh phúc, Gen Z, Việt Nam
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Gen Z là thế hệ được sinh ra trong kỷ nguyên đầy thách thức với những năm bùng nổ của Internet và các sản phẩm công nghệ. Họ là thế hệ đầu tiên tiếp xúc rộng rãi và trực tiếp với các công nghệ kỹ thuật số (Turner, 2015). Tại Việt Nam, internet đã được giới thiệu vào năm 1997, Facebook được ra mắt vào năm 2004 và Youtube đã trực tuyến vào năm 2005. Mặc dù là "Công dân thời đại kỹ thuật số" (Nguyen, 2020), nhưng thế hệ gen Z cũng bị internet và mạng xã hội ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Các nghiên cứu gần đây cho thấy thế hệ gen Z là thế hệ bị trầm cảm và lo lắng nhiều nhất so với các thế hệ khác.
Theo Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ (APA)(2019), thế hệ gen Z có nhiều khả năng về các vấn đề sức khỏe tâm thần như mức độ lo âu và mức độ trầm cảm hơn các thế hệ trước. Họ là một thế hệ bùng nổ trong lo âu với 50% thanh thiếu niên từ 13 tuổi đến 19 tuổi và 75% người ở tuổi 24 có vấn đề sức khỏe tâm lý (Hào, 2022b). Tại Việt Nam, theo khảo sát của web làm việc indeed, thế hệ gen Z được đánh giá là dễ bị tình trạng kiệt sức (burn out) với tỷ là là 58%, một con số rất cao. Tiến sĩ, bác sĩ Vũ Sơn Tùng, Viện Sức khỏe Tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai cho biết mỗi tháng có khoảng 8.000 người tới bệnh viện khám mắc các rối loạn tâm thần, tỷ lệ người trẻ (tuổi từ 18-35) chiếm khoảng 30% (VnExpress, 2024).
Mặc dù vậy, gen Z lại là thế hệ nổi bật vì sẵn sàng thảo luận và tìm kiếm sự giúp đỡ cho các vấn đề về sức khỏe tâm thần của họ. Theo báo cáo của Harmony Healthcare IT, hai trong 5 người trẻ thuộc gen Z sẽ đi khảo sát trị liệu thường xuyên và 53% số gen Z đã từng nhận các dịch vụ sức khỏe tâm thần chuyên nghiệp (Pacific Oaks College, 2024).
Theo bà Nguyễn Thị Lâm, PGS.TS chia sẻ, Tại Việt Nam, có đến 86,3% thanh thiếu niên ở độ tuổi từ 11 đến 17 thiếu hoạt động thể chất (Bình, 2024). Theo thống kê của Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế, có tới 30% người Việt Trưởng thành thiếu vận động thể lực (Phương, 2024). Tuy nhiên thể thao lại là một trong những chủ đề được gen Z đặc biệt quan tâm, chiếm phần lớn là bóng đá. Gen Z sẽ quan tâm và tương tác nhiều nhất các nội dung liên quan đến dự đoán kết quả và cập nhật diễn biến trận đấu. Điều này cho thấy rằng họ không chỉ quan tâm đến kết quả cuối cùng mà còn thích tham gia vào quá trình theo dõi và dự đoán trận đấu (Khám Phá 3 Sự Thật Ngầm Hiểu Về Thế Hệ Gen Z [Update 2024], n.d.).
Dựa vào những nghiên cứu gần đây, thế hệ gen Z là một thế hệ có sức khỏe tâm lý chưa thực sự tốt bởi nhiều nguyên nhân. Tuy nhiên, gen Z vẫn luôn cởi mở hơn việc thừa nhận và tìm kiếm sự giúp đỡ vấn đề tâm lý của họ, đây là minh chứng cho việc gen Z hiểu rõ tầm quan trọng của sức khỏe tinh thần. Và thể dục thể thao là một trong những phương pháp để cải thiện vấn đề tâm lý của gen Z. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sẽ tập trung vào nghiên cứu đối tượng là gen Z Việt Nam, câu hỏi đặt ra là: Đối với thế hệ gen Z Việt nam hiện nay, việc tham gia tập thể dục thể thao có giúp cải thiện sức khỏe tâm thần của họ hay không?
Nghiên cứu sẽ tập trung khảo sát mức độ ảnh hưởng của các loại hình thể dục thể thao đối với các chỉ số sức khỏe tinh thần bao gồm trầm cảm, mức độ lo âu, căng thẳng, sức khỏe tâm lý và khả năng phục hồi của gen Z Việt Nam. Thông qua đó, nghiên cứu hy vọng đóng góp những thông tin hữu ích để khuyến khích việc duy trì thói quen tập thể dục thể thao dành cho gen Z, từ đó cải thiện chất lượng sống và nâng cao sức khỏe tinh thần của họ.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
- Khái niệm Thể dục thể thao
Thể dục thể thao (TDTT) là sự luyện tập cơ thể cải tạo cơ thể bằng sự vận động tích cực của cơ bắp. Thể dục thể thao là bộ phận của một nền văn hóa xã hội, một loại hình hoạt động mà phương tiện cơ bản là các bài tập thể lực nhằm tăng cường thể chất cho con người, nâng cao thành tích thể thao, góp phần phong phú sinh hoạt văn hoá và giáo dục con người phát triển cân đối hợp lý (PHẦN 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA LÝ LUẬN GIÁO DỤC THỂ CHẤT, nd).
2. Khái niệm sức khỏe tinh thần
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), sức khỏe tinh thần là "trạng thái khỏe mạnh mà cá nhân nhận ra khả năng của mình, có thể đối phó với những căng thẳng bình thường trong cuộc sống, làm việc hiệu quả và có kết quả, và đóng góp cho cộng đồng của họ"(2022)
Khảo sát về sức khỏe tinh thần, chúng tôi lựa chọn các biện pháp đo lường sự đau khổ về mặt tâm lý. Theo Macleod E và các cộng sự (2024), đo lường sự đau khổ về mặt tâm lý bao gồm: trầm cảm, mức độ lo âu, căng thẳng, rối loạn căng thẳng sau chấn thương, sức khỏe tâm lý, và khả năng ứng phó kiên cường.
Tuy nhiên trong nghiên cứu này chúng tôi sẽ không đo lường tiêu chí rối loạn căng thẳng sau chấn thương, bởi vì rối loạn căng thẳng sau chấn thương là tiêu chí dành cho các đối tượng nghiên cứu cá nhân đã trải qua hoặc chứng kiến một sự kiện chấn thương liên quan đến mối đe dọa thực tế hoặc sự kiện có thể gây ra tư vọng, thương tích nghiêm trọng (Hansen et al, 2010), điều này không phù hợp với đối tượng nghiên cứu trong bài nghiên cứu này.
3. Lý thuyết mối quan hệ giữa thể dục thể thao và sức khỏe tinh thần
Mối quan hệ giữa sức khỏe tinh thần và thể dục thể thao: Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng lượng hoạt động thể chất (PA) thấp hoặc thời gian vận động ít có liên quan đến nguy cơ mắc bệnh tâm thần kém cao hơn. Việc tập thể dục thể thao có tác động quan trọng đến chức năng sức khỏe tâm lý, tương đương với các phương pháp điều trị tâm lý. Và lợi ích sức khỏe tâm thần kéo dài sẽ phụ thuộc vào việc hoạt động thể chất thường xuyên (Smith & Merwin, 2020).

(Hình 1. Mô hình khái niệm về cơ chế hành vi mà thông qua đó việc tập thể dục cải thiện kết quả sức khỏe tâm thần.)
Tác động của thể dục thể thao đến sức khỏe tinh thần: Theo Aaron Kandola, tác giả chính của nghiên cứu của Ngân hàng Biobank và là ứng cử viên tiến sĩ trong khoa Tân học Đại học College London chia sẻ: "Chúng tôi đã cung cấp bằng chứng về mối quan hệ giữa sức khỏe thể chất và tinh thần rằng bài tập ở các loại hình thể dục khác nhau không chỉ tốt cho sức khỏe thể chất mà còn có thể có lợi cho sức khỏe tinh thần."( IWEB247, 2021).
Dựa trên giải thích sinh lý, lý do hoạt động thể chất và thể dục thể thao có thể cải thiện sức khỏe tinh thần là do sự tăng cường máu và tăng thể tích não (Boraxbekk et al, 2016) (Kramer và cộng sự, 2006), giảm tình trạng viêm não trong các bệnh thần kinh (Spielman et al, 2016), và tăng thể tích hồi hải mã (Ryan et al,, 2016). Trên thực tế, tập thể dục giúp cơ thể giải phóng nhiều hơn endorphin và các phân tử tăng cường sức khỏe tinh thần (Knochel, 2012). Việc thường xuyên tập thể dục sẽ đồng hoạt hóa thụ gamma kích hoạt peroxisome cơ xương 1-alpha (PGC-1α), tăng cường chuyển đổi kynurenine thành axit kynurenine, từ đó có thể làm trung gian giúp phục hồi sau trầm cảm và bảo vệ não, hạn chế nguy cơ mắc trầm cảm sau căng thẳng (Agudelo, 2014).
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu sử dụng
Nghiên cứu định lượng: Thu thập dữ liệu dưới dạng số liệu từ các công cụ đo lường là PHQ9, GAD7, PSS4, Wellbeing Index, và BRCS4 thông qua hình thức form khảo sát đối với các đối tượng là gen Z Việt Nam.
Nghiên cứu thử nghiệm: Tiến hành khảo sát 2 lần trước và sau khi can thiệp đối tượng nghiên cứu. Thực hiện khảo sát lần 1, sau đó cho đối tượng nghiên cứu tham gia vào chuỗi ngày tập thể dục thể thao và khảo sát lại họ lần thứ 2 sau khi can thiệp. So sánh kết quả thi giữa hai lần khảo sát rồi rút ra đánh giá tác động của thể dục thể thao đối với sức khỏe tinh thần của gen Z.
2. Đối tượng và mẫu nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu tập trung vào thế hệ gen Z Việt Nam, những người sinh khoảng 1997 đến 2012 Với kích thước mẫu là 300 người, đối tượng là các bạn học sinh, sinh viên và những người đi làm thuộc thế hệ gen Z. Họ là những người không hoặc ít khi tập thể dục thể thao và họ sẵn sàng tham gia thử thách 21 ngày tập thể dục thể thao nhằm quan sát sự thay đổi về sức khỏe tinh thần của họ.
3. Công cụ đo lường
Trầm cảm sẽ được đo lường bằng bảng 9 câu hỏi thuộc Patient Health Questionnaire-9 (PHQ9)(Kroenke et al, 2001), công cụ này sẽ giúp ta xác định triệu chứng 2 trước đó tương ứng với các tiêu chuẩn theo Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders phiên bản thứ 5 (DSM-5) (American Psychiatric Association, 2013)
Mức độ lo âu sẽ được đo lường bằng cách sử dụng bảng 7 câu hỏi thuộc General Anxiety Disorder (GAD7) (Spitzer et al., 2006) và cũng xác định các triệu chứng tương ứng với tiêu chí DSM-5.
Căng thẳng sẽ được đo lường bằng 4 câu hỏi thuộc Perceived Stress Scale (PSS4), chúng ta sẽ xác định đánh giá của đối tượng nghiên cứu về sự không thể đoán trước, không thể kiểm soát và cảm giác bị choáng ngợp của họ trong thoáng qua (Cohen et al., 1983).
Sức khỏe tâm lý sẽ được đo lường theo 5 câu hỏi thuộc Wellbeing Index của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO5) (Topp và cộng sự, 2015). Đối tượng được hỏi về các dấu hiệu của sức khỏe trong 2 tuần. Điểm cao hơn cho thấy sức khỏe tốt hơn và nguy cơ tử vong thấp hơn (Birket-Smith và cộng sự, 2009)
Khả năng ứng phó kiên cường sẽ đo lường dựa theo 4 câu hỏi thuộc Brief Resilient Coping Scale (BRCS4) (Sinclair and Wallston, 2004), xác định xu hướng đối diện với căng thẳng của đối tượng nghiên cứu.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thống kê được khảo sát dựa trên 200 mẫu có giới tính độ tuổi khác nhau thu được các kết quả như sau:

(Hình 2: Biểu đồ độ tuổi)

(Hình 3: Biểu đồ giới tính)
Khảo sát được tiến hành trên các thanh niên là gen Z với 11% độ tuổi là học sinh, 25,5% độ tuổi là sinh viên, và nhiều nhất 63,5% là những người thuộc độ tuổi đi làm. Về giới tính, khảo sát được thực hiện trên cả nam với nữ với nam là 110 đối tượng là nam và 90 đối tượng là nữ. Họ là những những người sẵn sàng và chuẩn bị bắt đầu tập thể dục thể thao.

(Hình 4: So sánh mức độ trầm cảm (PHQ - 9))
Khảo sát trước khi đối tượng bị can thiệp, đối tượng có mức độ trầm cảm nhẹ đang chiếm tỉ lệ cao nhất là 47,50%, sau đó lần lượt mức độ trầm cảm tối thiểu (không có) với 26,50%, mức độ trầm cảm vừa phải là 20%, và trầm cảm vừa phải nghiêm trọng là 6%. Sau khi đối tượng bị can thiệp, tỷ lệ mức độ trầm cảm nhẹ giảm mạnh xuống còn 31,50% và tỉ lệ mức độ trầm cảm tối thiểu tăng lên 41,50%. Đây là sự thay đổi tích cực về mặt tâm lý, nhưng cũng có thể thấy, các trường hợp mức độ trầm cảm vừa phải và vừa phải nghiêm trọng không có sự thay đổi nhiều. Bởi với tình trạng trầm cảm nặng, đối tượng cần tham gia điều trị với bác sĩ thay vì chỉ tập thể dục thể thao.

(Hình 5: So sánh mức độ lo âu (GAD7))
Khảo sát lần 1, tỷ lệ những người có mức độ lo âu vừa phải chiếm 42%, tuy nhiên sau đó tỷ lệ này đã giảm xuống chỉ còn 31,50% và số lượng người có mức độ lo âu tối thiểu cũng tăng nhanh với 53% tương đương 106 đối tượng trên 200 đối tượng tham gia.

(Hình 6: So sánh mức độ căng thẳng (PSS4))
Trước khi tập thể dục, các đối tượng mức độ căng thẳng vừa phải và nhẹ lần lượt là 60,5% và 39,5%. Sau khi bắt đầu tập thể dục thể thao, tỷ lệ này đã thay đổi đáng kể khi mức độ căng thẳng vừa phải chỉ còn 35,5% và mức độ căng thẳng nhẹ là 64%. Sự thay đổi này cũng đánh giá được thể dục thể thao đối có tác dụng giảm căng thẳng cho tâm trí con người bằng các cơ chế khác nhau của cơ thể theo khía cạnh sinh học.

(Hình 7: So sánh sức khỏe tâm lý)
Phần lớn các đối tượng có sức khỏe tâm lý chưa ổn định, họ không có quá nhiều thời gian cảm thấy vui vẻ, tinh thần thoải mái và thực sự sảng khoái. Phần lớn lựa chọn "Không bao giờ" với câu "Cuộc sống hàng ngày của tôi những điều thú vị đối với tôi". Sau thời gian luyện tập thể dục thể thao, có thể thấy đã có sự thay đổi khá lớn khi tỷ lệ người có sức khỏe tâm lý không tốt và chưa ổn đã giảm đi đáng kể, tuy nhiên vẫn cần thời gian dài để giúp con người có được sức khỏe tâm lý tốt.

(Hình 8: So sánh mức độ khả năng chịu đựng, kiên cường (BRCS4))
Nổi tiếng là thế hệ nhạy cảm, và dễ bị tổn thương. Các đối tượng trước khi bị can thiệp cũng có khả năng chịu đựng, kiên cường thấp và chiếm số lượng nhiều. Sau khi tập thể dục thể thao, tình trạng này đã được giảm tuy nhiên vẫn cần thời gian lâu dài để có thể cải thiện tốt hơn sức chịu đựng cũng như ý chí.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Kết quả nghiên cứu cho thấy, thể dục thể thao có tác động tích cục đến sức khỏe tinh thần của thế hệ gen Z Việt Nam. Phần lớn gen Z đều đang gặp ít nhất từ 1 đến 2 vấn đề về sức khỏe tinh thần của họ, đặc biệt là sự căng thẳng, sức chịu đựng thấp và và tâm lý chưa tốt. Thế những tình trạng ấy có thể thay đổi dần theo hướng tích cực nếu có sự vận động thường xuyên và đúng đắn trong một khoảng thời gian nhất định. Dựa theo khía cạnh sinh học, việc tập thể dục thể thao có mối quan hệ chặt chẽ với việc nâng cao sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần. Thể dục thể thao có thể thay đổi và cải thiện những vấn đề về sức khỏe tinh thần như giảm căng thẳng, giảm lo âu, tăng khả năng chịu đựng, mức độ cải thiện sẽ tùy vào tần suất tập luyện và cơ địa của mỗi người. Bên cạnh đó, đối với những vấn đề như trầm cảm nghiêm trọng giá vừa phải nghiêm trọng, cần thiết có sự tư vấn và góp ý của những bác sĩ có chuyên môn thay vì chỉ tập thể dục thể thao.
Dựa trên điều này, chiến dịch thúc đẩy Gen Z tập thể dục thể thao có thể cải thiện sức khỏe tinh thần cho Gen Z. Một trong những cách thức để đạt được điều này là việc các nhãn hàng sử dụng nhiều cách tiếp cận mới, sử dụng meme là "ngôn ngữ của Gen Z", ngoài các hoạt động nâng cao nhận thức còn cần có các hoạt động thúc đẩy Gen Z bắt đầu hành động. Đó là những bước cần thiết để Gen Z Việt Nam có thể dần dần cải thiện sức khỏe tinh thần thông qua việc tập thể dục thể thao mỗi ngày.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Turner, A. (2015). Thế hệ Z: Công nghệ và sở thích xã hội. Tạp chí Tâm lý cá nhân, 71, 103-113. https://doi.org/10.1353/jip.2015.0021
- Nguyen, LH, & Nguyen, HP (2020b). Thế hệ Z tại Việt Nam: Cuộc tìm kiếm tính xác thực. Trong Sách điện tử Emerald Publishing Limited (trang 135–148). https://doi.org/10.1108/978-1-80043-220-820201014
- Bethune, S. (2019). Thế hệ Z có nhiều khả năng báo cáo các vấn đề về sức khỏe tâm thần hơn. Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ , [trực tuyến] tháng 1, trang 20. Có tại: https://www.apa.org/monitor/2019/01/gen-z.
- Hào N. V. (2022, February 8). Thế hệ lo âu. Mega Story. https://special.vietnamplus.vn/2022/02/08/genz-the-he-lo-au/
- VnExpress. (2024, December 1). Hội chứng kiệt sức của Gen Z. vnexpress.net. https://vnexpress.net/hoi-chung-kiet-suc-cua-gen-z-4821839.html
- Pacific Oaks College. (2024b, ngày 8 tháng 3). Quan điểm của Gen Z về liệu pháp và sức khỏe tâm thần | Pacific Oaks . Voices Digital. https://www.pacificoaks.edu/voices/blog/gen-z-view-on-mental-health/
- Bình B. V. Ả. T. (2024, April 9). Chuyên gia lý giải những nguyên nhân chính của thừa cân béo phì ở Việt Nam. Copyright © 2021 Báo SK&ĐS Online. https://suckhoedoisong.vn/chuyen-gia-ly-giai-nhung-nguyen-nhan-chinh-cua-thua-can-beo-phi-o-viet-nam-169240409150803172.htm
- Phương H. (2024, September 11). 30% người Việt trưởng thành thiếu vận động thể lực. Nhịp Sống Kinh Tế Việt Nam & Thế Giới. https://vneconomy.vn/30-nguoi-viet-truong-thanh-thieu-van-dong-the-luc.htm
- Khám phá 3 sự thật ngầm hiểu về thế hệ Gen Z [Update 2024]. (n.d.). https://www.buzzmetrics.com/insight/kham-pha-3-su-that-ngam-hieu-ve-the-he-gen-z
- VnExpress. (2024b, December 7). "Gen Z bất ổn hơn 8X, 9X." vnexpress.net. https://vnexpress.net/gen-z-bat-on-hon-8x-9x-4824761.html
- PHẦN 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA LÝ LUẬN GIÁO DỤC THỂ CHẤT. (thứ). Có tại: https://old.vinhuni.edu.vn/DATA/3/upload/590/documents/2016/02/de_cuong_ly_luan_va_pp_gdtc.pdf.
- Tổ chức Y tế Thế giới: WHO. (2022b, ngày 17 tháng 6). Sức khỏe tâm thần . https://www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/mental-health-strengthening-our-response
- Macleod, E., Heffernan, T., Greenwood, L., Walker, I., Lane, J., Stanley, SK, Evans, O., Calear, AL, Cruwys, T., Christensen, BK, Kurz, T., Lancsar, E., Reynolds, J., Harris, RR, & Sutherland, S. (2023b). Các yếu tố dự báo sức khỏe tâm thần và khả năng phục hồi tâm lý của cá nhân sau các vụ cháy rừng năm 2019–2020 ở Úc. Tạp chí Tâm thần học Úc và New Zealand , 58 (1), 58–69. https://doi.org/10.1177/00048674231175618
- Hansen M, Andersen TE, Armour C, et al. (2010) PTSD-8: A short PTSD inventory. Clinical Practice and Epidemiology in Mental Health 6: 101–108.
- Smith, PJ, & Merwin, RM (2020b). Vai trò của tập thể dục trong việc quản lý các rối loạn sức khỏe tâm thần: Một đánh giá tích hợp. Đánh giá hàng năm về y học , 72 (1), 45–62. https://doi.org/10.1146/annurev-med-060619-022943
- Thiết kế bởi IWEB247. (2021, April 1). Mối quan hệ giữa tập luyện thể dục và sức khỏe tinh thần | BvNTP. https://bvnguyentriphuong.com.vn/. https://bvnguyentriphuong.com.vn/nghien-cuu-duoc-dang-tai-tren-tap-chi-quoc-te/moi-quan-he-giua-tap-luyen-the-duc-va-suc-khoe-tinh-than?utm_source=chatgpt.com
- Boraxbekk, C.J.; Salami, A.; Wahlin, A.; Nyberg, L. Physical activity over a decade modifies age-related decline in perfusion, gray matter volume, and functional connectivity of the posterior default-mode network-A multimodal approach. Neuroimage 2016, 131, 133–141.
- Kramer, A.F.; Marquez, D.X.; McAuley, E.; Kim, J.S.; Erickson, K.I.; Hu, L.; Scalf, P.E.; Prakash, R.; Colcombe, S.J.; Elavsky, S. Aerobic Exercise Training Increases Brain Volume in Aging Humans. J. Gerontol. 2006, 61, 1166–1170.
- Spielman, L.J.; Little, J.P.; Klegeris, A. Physical activity and exercise attenuate neuroinflammation in neurological diseases. Brain Res. Bull. 2016, 125, 19–29.
- Ryan, S.M.; Nolan, Y.M. Neuroinflammation negatively affects adult hippocampal neurogenesis and cognition: Can exercise compensate? Neurosci. Biobehav. Rev. 2016, 61, 121–131.
- Knochel, C.; Oertel-Knochel, V.; O’Dwyer, L.; Prvulovic, D.; Alves, G.; Kollmann, B.; Hampel, H. Cognitive and behavioural effects of physical exercise in psychiatric patients. Progr. Neurobiol. 2012, 96, 46–68.
- Agudelo, L.Z.; Femenia, T.; Orhan, F.; Porsmyr-Palmertz, M.; Goiny, M.; Martinez-Redondo, V.; Correia, J.C.; Izadi, M.; Bhat, M.; Schuppe-Koistinen, I.; et al. Skeletal muscle PGC-1alpha1 modulates kynurenine metabolism and mediates resilience to stress-induced depression. Cell 2014, 159, 33–45.
- Kroenke K, Spitzer RL, Williams JB (2001) The PHQ-9: Validity of a brief depression severity measure. Journal of General Internal Medicine 16: 606–613.
- American Psychiatric Association (2013) Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th Edition. Washington, DC: American Psychiatric Publishing.
- Spitzer RL, Kroenke K, Williams JB, et al. (2006) A brief measure for assessing generalized anxiety disorder: The GAD-7. Archives of Internal Medicine 166: 1092–1097.
- Cohen S, Kamarck T, Mermelstein R (1983) A global measure of perceived stress. Journal of Health and Social Behavior 24: 385–396.
- Topp CW, Østergaard SD, Søndergaard S, et al. (2015). The WHO-5 Well-Being Index: A systematic review of the literature. Psychotherapy and Psychosomatics 84: 167–176.
- Birket-Smith M, Hansen BH, Hanash JA, et al. (2009) Mental disorders and general well-being in cardiology outpatients – 6-year survival. Journal of Psychosomatic Research 67: 5–10.
- Sinclair VG, Wallston KA (2004) The development and psychometric evaluation of the Brief Resilient Coping Scale. Assessment 11: 94–101.
Trần Thị Ngọc Linh, Trần Thanh Huyền, Nguyễn Văn Vũ Hiệp