Tham nhũng là một căn bệnh cực kỳ nguy hại, gây cản trở sự phát triển của xã hội, đe dọa sự tồn vong của chế độ. Vì vậy, sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trên cương vị là người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm, chú trọng việc phòng ngừa, đấu tranh chống các biểu hiện tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Trong đó, quan điểm của Người về cơ chế, chính sách trong phòng, chống tham nhũng là cơ sở lý luận có giá trị to lớn đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ chế, chính sách trong phòng, chống tham nhũng
Trước hết, cán bộ, công chức không ngừng nâng cao đạo đức công vụ góp phần vào phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng từ sớm, từ xa. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn thì cán bộ, công chức đều phải thực hiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng, nhất là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Người nhấn mạnh: "Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân"1. Khi có quyền hành trong tay cán bộ, công chức nếu không giữ được đạo đức cách mạng sẽ dễ dẫn đến lạm quyền, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, chỉ lo vun vén lợi ích cá nhân. Người cán bộ, công chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước, thông qua việc đóng thuế của nhân dân, như lời Bác căn dặn: "Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều do mồ hôi, nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy, chúng ta phải đền bù xứng đáng cho nhân dân. Muốn làm như vậy, chúng ta phải cố gắng thực hành cần, kiệm, liêm, chính"2. Không có nhân dân thì không có cán bộ, công chức. Nếu cán bộ, công chức không ý thức được việc nâng cao đạo đức, tinh thần trách nhiệm thì sẽ không hoàn thành trọng trách mà Đảng, Nhà nước, nhân dân giao phó; thậm chí, rơi vào tệ tham ô gây hại cho Đảng, cho cách mạng. Do đó, cán bộ, công chức phải không ngừng nâng cao đạo đức công vụ. Khi cán bộ, công chức hội tụ các phẩm chất đạo đức trên thì nạn tham nhũng không có cơ hội phát sinh, phát triển.
Thứ hai, Đảng và Nhà nước đề cao dân chủ, coi trọng tính minh bạch, công khai trong xây dựng cơ chế, chính sách. Đối với vấn đề dân chủ, Người khẳng định: "Mở rộng dân chủ phê bình trong cơ quan và ngoài quần chúng, từ trên xuống và từ dưới lên. "Trên đe dưới búa" của phê bình, thì nhất định tẩy được bệnh quan liêu, tham ô, lãng phí"3. Tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình là các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, giữ gìn phẩm chất, tư cách cán bộ, đảng viên, củng cố niềm tin của quần chúng đối với Đảng, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh và hệ thống chính trị vững mạnh toàn diện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục nhấn mạnh: "Quần chúng thật sự có quyền dân chủ và cán bộ, đảng viên, đoàn viên phải xung phong, gương mẫu thì chắc chắn ngăn ngừa được những tệ quan liêu, mệnh lệnh, lãng phí, tham ô"4. Quyền dân chủ là một trong những quyền con người, do đó trong công cuộc phòng, chống tham nhũng phải thúc đẩy quyền này trên trên thực tế, thực chất. Hoàn thiện cơ chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng nhất thiết phải lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, bởi "dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra"5. Chính vì vậy, phải phát huy trí tuệ trong chính nội bộ Đảng, cơ quan Nhà nước và đặc biệt phải phát huy trí tuệ của quần chúng nhân dân.
Xây dựng được cơ chế công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước, trước hết là trong hoạt động tài chính. Người yêu cầu: "…tài chính phải công khai - Sổ sách phải minh bạch. Phải chống quan liêu, lãng phí, tham ô"6. Công khai, minh bạch vừa là nội dung quan trọng, vừa là nội dụng, biện pháp để thực hành dân chủ, góp phần tích cực trong phòng, chống tham nhũng. Công khai, minh bạch tài chính các tổ chức, tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức để quần chúng nhân dân nắm, theo dõi, tìm ra điểm bất thường để góp ý.
Công tác phòng, chống tham nhũng muốn đạt kết cần đề cao tính công khai, minh bạch. Tuy nhiên, vấn đề công khai, minh bạch nhưng không được xâm phạm đến nguyên tắc giữ bí mật. Bởi lẽ, theo Hồ Chí Minh: "Giữ bí mật của Nhà nước là một bộ phận trong cuộc đấu tranh với địch"7, và "chúng ta phải tuyên truyền giải thích cho nhân dân hiểu thấu, để nhân dân giúp sức vào công việc này"8. Như vậy, công khai, minh bạch việc hoạch định cơ chế, chính sách nhưng không để lộ lọt bí mật nhà nước, bí mật quốc gia là việc làm hết sức cần thiết.
Thứ ba, Đảng và Nhà nước chú trọng kiểm tra, kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng hiệu quả. Tham nhũng nảy sinh từ sự tha hóa quyền lực. Hồ Chí Minh khẳng định: "Cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp "dĩ công vi tư"9. Do đó, công tác kiểm tra rất quan trọng, có thể nói rằng: "Chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra"10, nếu kiểm tra chu đáo thì bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm và khuyết điểm đều thấy rõ. Để kiểm soát quyền lực được tốt, theo Hồ Chí Minh: "Một là việc kiểm soát phải có hệ thống, phải thường xuyên làm. Hai là, người đi kiểm soát phải là những người rất có uy tín"11. Như vậy, phải xây dựng cơ chế, quy định, quy chế kiểm tra, kiểm soát quyền lực; phân công, phân cấp có hệ thống, cụ thể, rõ ràng.
Đặc biệt, chú trọng phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ làm công tác kiểm tra, lựa chọn những người biết đặt lợi ích của Đảng, của quốc gia - dân tộc cao hơn hết thảy; phải có tinh thần "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ" và "ít lòng tham muốn vật chất". Đồng thời, phải lựa chọn những người có uy tín, kinh nghiệm, năng lực trình độ để thực hiện kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực. Theo Hồ Chí Minh "người lãnh đạo cần phải có một nhóm cán bộ nhiều kinh nghiệm và giàu năng lực để giúp mình đi kiểm tra. Ai đi kiểm tra việc gì, nơi nào, nếu có sơ suất thì người ấy phải chịu trách nhiệm"12. Việc chọn người đi kiểm soát cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, mục đích là phát huy tối đa tinh thần trách nhiệm, đề cao sự liêm khiết, chính trực, công tâm của đội ngũ làm công tác kiểm tra, kiểm soát quyền lực.
Phương pháp kiểm tra, kiểm soát: "Một cách là từ trên xuống. Tức là người lãnh đạo kiểm soát kết quả những công việc của cán bộ mình. Một cách nữa là từ dưới lên. Tức là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cái cách sửa chữa sự sai lầm đó"13. Không chỉ cấp trên kiểm tra cấp dưới mà quần chúng, cấp dưới phải thực viện việc giám sát người lãnh đạo, đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị. Như vậy mới bảo đảm tính toàn diện trong kiểm tra, kiểm soát quyền lực, từ đó nâng cao hiệu quả phòng, chống tham nhũng.
Thứ tư, Nhà nước nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật. Mặc dù Hồ Chí Minh xác định: "Trong phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu, giáo dục là chính, trừng phạt là phụ"14 nhưng để phòng, chống tham nhũng hiệu quả không thể thiếu công cụ luật pháp. Bởi, "Giáo dục là chính, nhưng đối với những kẻ ngoan cố không chịu sửa đổi thì chính quyền phải dùng phép luật. Phép luật là phép luật của nhân dân, dùng để ngăn cản những hành động có hại cho nhân dân, để bảo vệ lợi ích chung của đại đa số nhân dân"15.
Trên cương vị người đứng đầu Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc soạn thảo, ban hành các văn bản để phòng, chống tham nhũng. Ở Người luôn rạnh ròi giữa thưởng và phạt. Trong đó, ngày 26/01/1946, đã ký, ban hành Quốc lệnh quy định những trường hợp thưởng và phạt, trong đó nêu rõ "Trong một nước, thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công"16. Quốc lệnh quy định 10 trường hợp thưởng và 10 trường hợp phạt để mọi người nắm và thực hiện. Trong đó quy định thứ 8 đã xác định trộm cắp của công sẽ bị xử tử.
Bên cạnh đó, Người chỉ rõ: "Cần có những pháp luật để trừng trị tệ tham ô, lãng phí, và phải chấp hành những pháp luật ấy một cách nghiêm chỉnh…"17 và "Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì"18. Về hình phạt, Hồ Chí Minh cũng đã kế thừa quan điểm của V.I. Lênin: "không xử bắn bọn ăn hối lộ mà xử nhẹ như thế, là một việc xấu hổ cho những người cộng sản, những người cách mạng"19. Đối với những kẻ tham nhũng, tiêu cực thông qua hình phạt không chỉ là bản án về hành vi mà còn là bản án về lương tâm để cho công luận đánh giá. Chính vì thế, trong phòng, chống tham nhũng phải kết hợp giữa "đức trị" với "pháp trị"; phải kết hợp linh hoạt, sáng tạo phương pháp giáo dục với kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước phù hợp với tính chất, mức độ sai phạm của hành vi tham nhũng; không thể xem nhẹ bất kỳ phương pháp nào.
Thứ năm, Đảng và Nhà nước xây dựng cơ chế, chính sách để phát huy tối đa sức mạnh của nhân dân trong phòng, chống tham nhũng. Hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thấu hiểu sức mạnh to lớn của nhân dân: "Lực lượng của dân chúng nhiều vô cùng. Kinh nghiệm trong nước và các nước tỏ cho chúng ta biết: Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có thì việc gì làm cũng không xong"20. Sức mạnh của nhân dân là vô địch. Vì thế, phòng, chống tham nhũng đều phải dựa vào dân, "lấy dân làm gốc" mới thực hiện được. Người chỉ rõ: "Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn"21; "ta được lòng dân thì ta không sợ gì cả. Nếu không được lòng dân thì ta không thể làm tốt công tác"22. Phòng, chống tham nhũng chính là thực hiện nguyện vọng, mong muốn của nhân dân. Song muốn phòng, chống tham nhũng hiệu quả, Đảng phải giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân; phải công khai mọi hoạt động của Nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức trước nhân dân; phải để mọi người dân "biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm"23.
Thứ sáu, Đảng, Nhà nước phải hết lòng thương yêu, chăm lo, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng cuộc sống cho cán bộ, công chức để họ không tham nhũng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Không phải vài ba tháng, hoặc vài ba năm, mà đào tạo được một người cán bộ tốt. Cần phải công tác, tranh đấu, huấn luyện lâu năm mới được. Trái lại, trong lúc tranh đấu rất dễ mất một người cán bộ. Vì vậy, Đoàn thể phải thương yêu cán bộ"24. Mặt khác, cải thiện đời sống cán bộ cần "giúp họ giải quyết những vấn đề khó khăn sinh hoạt, ngày thường thì điều kiện dễ chịu, khi ốm đau được chăm nom, gia đình họ khỏi thiếu thống"25; "Phải cho họ điều kiện sinh sống đầy đủ mà làm việc. Khi họ đau ốm, phải có thuốc thang. Tuỳ theo hoàn cảnh mà giúp họ giải quyết vấn đề gia đình. Những điều đó rất quan hệ với tinh thần của cán bộ, và sự thân ái đoàn kết trong Đảng"26. Theo đó phải có chế độ đãi ngộ hợp lý đối với cán bộ, công chức, bảo đảm các nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống hằng ngày của cán bộ và gia đình của họ. Đây là cơ sở, động lực để cán bộ, công chức không cần tham nhũng.
2. Vận dụng dụng quan điểm Hồ Chí Minh trong hoàn thiện cơ chế, chính sách phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay
Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham nhũng Đảng ta đã quán triệt, nghiên cứu, vận dụng sát với thực tiễn từng giai đoạn cách mạng. Từ năm 2012 đến nay, Đảng ta đã ban hành hơn 250 văn bản liên quan đến phòng, chống tham nhũng. Bên cạnh đó, các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng được sửa đổi, bổ sung như: Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) đã bổ sung 4 tội danh về tham nhũng đối với khu vực ngoài nhà nước; Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 dành một chương riêng về hoạt động phòng, chống tham nhũng ở khu vực ngoài nhà nước... Đồng thời, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành hơn 2.000 nghị định, quyết định; các bộ, ngành, địa phương đã ban hành hàng ngàn văn bản dưới luật để cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước liên quan đến phòng, chống tham nhũng.
Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong thời gian qua đã được thực hiện quyết liệt theo tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị, như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: "Nói đi đôi với làm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai, không chịu sức ép của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào"27. Nhận thức về phòng, chống tham nhũng của cán bộ, đảng viên và nhân dân tiếp tục nâng lên; công tác phát hiện và xử lý tham nhũng được chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả khẳng định quyết tâm rất cao của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế về quản lý kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng được đẩy mạnh, từng bước hoàn thiện cơ chế phòng ngừa chặt chẽ, ngăn chặn từ sớm, từ xa; công tác cán bộ, cải cách hành chính thực hiện công khai, minh bạch; trách nhiệm giải trình trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị được chú trọng; công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng được tăng cường, có nhiều đổi mới, sáng tạo; vai trò của Mặt trận Tổ quốc, nhân dân và báo chí, truyền thông trong phòng, chống tham nhũng ngày càng được phát huy; công tác kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động và sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị chức năng phòng, chống tham nhũng ngày càng chặt chẽ.
Tuy nhiên, một bộ phận cán bộ, công chức chưa tích cực rèn luyện đạo đức, lối sỗng còn xa vào tham nhũng; một số cơ quan, đơn vị, địa phương, người đứng đầu chưa thực hiện đầy đủ các quy định về công khai, minh bạch trong tổ chức, hoạt động và trách nhiệm giải trình; công khai tài sản thu nhập cá nhân một số nơi diễn còn hình thức, trên thực tế còn nhiều hơn so với công khai; tình trạng lợi dụng kẽ hở về cơ chế, chính sách, pháp luật, vị trí công tác để nhũng nhiễu, trục lợi, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp còn diễn biến phức tạp; công tác kiểm tra, kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ; thực hiện công tác chính sách cán bộ để phòng ngừa tham nhũng có thời điểm hiệu quả chưa rõ nét.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: "Tham nhũng trên nhiều lĩnh vực còn nghiêm trọng, phức tạp, với biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội. Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ ta"28. Do đó, thời gian tới cần tiếp tục quán triệt, vận dụng sáng tạo, hiệu quả quan điểm Hồ Chí Minh để hoàn thiện cơ chế, chính sách phòng, chống tham nhũng sát với tình hình, bối cảnh của đất nước. Trong đó, tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, mỗi cán bộ, công chức phải thất rõ tác hại của tham nhũng, tự giác tích cực rèn luyện đạo đức công vụ thông qua các hoạt động thực tiễn. Đã là người "công bộc", "đầy tớ" của nhân dân thì bất luận trong mọi hoàn cảnh nào, khó khăn đến mấy, thậm chí dù phải hy sinh cán bộ, công chức đều phải đặt nhiệm vụ của cách mạng lên hết thảy; hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Đặc biệt, trước tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường, đòi hỏi cán bộ, công chức phải đẩy lùi được cám dỗ về mặt vật chất. Cán bộ, công chức phải thực hiện tốt tự phê bình và phê bình, phải soi xét lại mình, lắng nghe ý kiến mọi người để tự đánh giá bản thân một cách khách quan, nghiêm khắc; có thái độ cầu thị tiếp thu ý kiến phê bình của người khác, nghiêm túc khắc phục, sửa chữa nếu có sai lầm, khuyết điểm. Từng cán bộ, công chức phải cam kết không tham nhũng dưới bất kỳ hình thức nào. Các tổ chức đảng thực hiện nghiêm túc việc đánh giá chất lượng cán bộ, đảng viên. Đối với cấp ủy, chi bộ tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng qua sinh hoạt chi bộ thường kỳ, sinh hoạt theo chuyên đề. Cấp uỷ cấp trên làm tốt việc kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới; chi uỷ, chi bộ tập trung kiểm tra cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống, không liêm chính, có dấu hiệu tham nhũng; siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, tiến hành rà soát, sàng lọc, đưa những người không còn đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng.
Hai là, bảo đảm tính công khai, minh bạch trong hoạch định chính sách, xây dựng và thực thi pháp luật. Trong đó, quá trình soạn thảo, trình, ban hành chính sách, pháp luật, các quyết định, văn bản hành phải công khai hóa, minh bạch hóa nhưng phải tuân thủ các quy định về bí mật nhà nước, phải huy động trí tuệ tập thể của cơ quan, đơn vị, địa phương; huy động được sự tham gia của các tầng lớp nhân dân để hoàn thiện chính sách, pháp luật phòng, chống tham nhũng. Thực hiện nghiêm túc các quy định về công khai tài chính, ngân sách, mua sắm, đầu tư của các cơ quan, đơn vị hành chính công. Đối với tài sản, thu nhập của cán bộ công phải tuân thủ, thực hiện nghiêm túc theo quy định Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 và Nghị định số 130/2020/NĐ-CP, ngày 30/10/2020 của Chính phủ về kiểm soát tài sản thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Đặc biệt, cán bộ, công chức phải có nghĩa vụ kê khai tài sản thu nhập và các biến động về tài sản cũng như thu nhập của mình cùng người thân theo quy định và chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực, đầy đủ đối với nội dung kê khai. Kê khai tài sản, thu nhập phải ghi rõ ràng, đầy đủ, chính xác các loại tài sản, thu nhập, biến động tài sản, thu nhập phải kê khai, nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm. Thực hiện nghiêm túc công tác kiểm tra việc kê khai tài sản, thu nhập. Mở rộng hình thức công khai, cần công bố thông tin thu nhập tài sản của cán bộ, công chức trên cổng thông tin điện tử của các cơ quan, đơn vị, địa phương để nhân dân nắm, thực hiện giám sát, phản biện xã hội.
Ba là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử trong phát hiện, xử lý tham nhũng. Công tác kiểm tra, giám sát được ví như "thanh bảo kiếm" của Đảng, để phòng, chống hiệu quả cần tiến hành nghiêm túc, hiệu quả công tác này, baaor đảm "không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai". Bên cạnh việc kiểm tra, giám sát thường xuyên, cần tiến hành kiểm tra đột xuất; đối tượng kiểm tra, giám sát tập trung vào cán bộ có chức vụ, quyền hạn, công tác ở những nơi dễ phát sinh tham nhũng; yêu cầu khi tiến hành công tác này phải khách quan, công tâm, "dĩ công vi thượng", thực hiện chủ động, kịp thời, không bỏ xót hành vi tham nhũng bất kể người đó là ai; chống tham nhũng từ ngay trong chính cơ quan, đội làm công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát; bảo đảm cho đội ngũ này có bản lĩnh vững vàng, liêm chính, trung thực, có dũng khí bảo vệ cái đúng, đấu tranh với cái sai; không chịu bất cứ sức ép không trong sáng nào từ các tổ chức, cá nhân; không bị mua chuộc bởi lợi ích; có kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng chuyên sâu đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
Bốn là, phát huy sức mạnh tổng hợp trong phòng, chống tham. Theo đó, tiếp tục tăng cường vai trò, trách nhiệm của cơ quan, đại biểu dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí và nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Biến quyết tâm chính trị cao của Đảng thành quyết tâm và hành động cụ thể của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Thực hiện hiệu quả phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng" trong cuộc chiến chống tham nhũng. Các cơ quan thông tấn, báo chí cần tích cực vào cuộc, đồng hành cùng Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng trong phòng, chống tham nhũng, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền về biểu hiện, tác hại của tham nhũng; chú trọng đưa tin tin chính xác, kịp thời về các vụ việc tham nhũng. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, động viên, khuyến khích người dân tố cáo hành vi tham nhũng và có cơ chế, chính sách bảo vệ, khen thưởng người tố cáo, phát hiện hành vi tham nhũng; tôn vinh, khen thưởng tổ chức, cá nhân có thành tích trong phòng, chống tham nhũng; xử lý nghiêm minh những trường hợp lợi dụng quyền tố cáo tham nhũng để vu khống tổ chức, cá nhân.
Năm là, xây dựng hệ thống chính sách tiền lương quốc gia khoa học, hợp lý. Tiền lương phải là nguồn thu nhập chính bảo đảm đời sống cho cán bộ, công chức và gia đình của họ; trả lương đúng, hợp lý là đầu tư cho phát triển, tạo động lực cho cán bộ, công chức tránh xa tham nhũng. Cải cách chính sách tiền lương phải trên cơ sở nguyên tắc phân phối theo lao động và tuân thủ quy luật khách quan của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có lộ trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và nguồn lực của đất nước; có tính tổng thể, hệ thống, đồng bộ, kế thừa và phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế, bất cập của chính sách tiền lương hiện hành. Thực hiện trả lương cho cán bộ, công chức theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo, phù hợp với nguồn lực của Nhà nước và nguồn thu sự nghiệp dịch vụ công, bảo đảm tương quan, hợp lý với tiền lương trên thị trường lao động; thực hiện đồng bộ, hiệu quả tinh giản biên chế gắn với cải cách tiền lương. Xây dựng và thực hiện hiệu quả chính sách cán bộ, đề cao năng lực vận dụng chính sách cán bộ của từng địa phương theo hướng hợp lý; quan tâm, khen thưởng xứng đáng với những cống hiến, đóng góp của cán bộ, công chức; chú trọng giải quyết hài hòa lợi ích của cán bộ, công chức thông qua các chế độ đãi ngộ giúp họ an tâm công tác, cống hiến nhiều hơn cho cơ quan, đơn vị; giảm bớt sự ràng buộc, phụ thuộc vào kinh tế gia đình. Chính sách đãi ngộ vật chất, động viên tinh thần một cách hợp lý và thỏa đáng là một nhân tố vô cùng quan trọng góp phần làm trong sạch đội ngũ, giúp cán bộ, công chức "nói không" với tham nhũng.
3. Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham nhũng đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị, là nguồn động lực mạnh mẽ để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân kiên quyết, kiên trì ngăn chặn và đẩy lùi vấn nạn nguy hiểm này. Vì vậy, thời gian tới, cần tiếp tục nghiên cứu, phát triển, vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hoàn thiện cơ chế, chính sách phòng, chống tham nhũng góp phần xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, xứng đáng với niềm tin, kỳ vọng của nhân dân.
Chu Xuân Đại Thắng, Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng
Trịnh Thị Thúy, Trường Đại học Nguyễn Huệ
Tài liệu tham khảo:
(16) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.189.(1), (5), (10), (11), (12), (13), (20), (24), (25), (26) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.22, 355, 673, 327, 637, 328, 225, 322, 322, 316.(9), (18) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.127, 127.
(14), (19), (21) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.361, 288, 270.
(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.140.
(2), (15) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.145, 259.
(7), (8) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.263, 263.
(6), (17) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 13, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.433, 419.
(4), (22), (23) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.326, 142, 193.(27), (28) Nguyễn Phú Trọng, Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng đảng và nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.94, 101.