Một số giải pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng năng lực chuyển đổi số của đội ngũ giảng viên trẻ ở nhà trường quân đội

Thứ năm, 17/07/2025 - 16:05

Tóm tắt: Chuyển đổi số trong giáo dục đào tạo đang trở thành yêu cầu cấp thiết trong các nhà trường Quân đội nhằm đáp ứng mục tiêu hiện đại hóa, chính quy hóa, nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ. Đội ngũ giảng viên trẻ, với đặc điểm năng động, tiếp cận nhanh với công nghệ, giữ vai trò quan trọng trong quá trình này. Bài viết phân tích thực trạng bồi dưỡng năng lực chuyển đổi số của giảng viên trẻ hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng năng lực chuyển đổi số của đội ngũ giảng viên trẻ ở nhà trường Quân đội hiện nay.

Năng lực chuyển đổi số của giảng viên được hiểu là tổng hợp các kiến thức, kỹ năng, thái độ và kinh nghiệm giúp người giảng dạy thiết kế, tổ chức, triển khai và đánh giá các hoạt động dạy - học trên nền tảng công nghệ. Theo mô hình DigCompEdu do Ủy ban Châu Âu công bố năm 2017, năng lực chuyển đổi số của nhà giáo bao gồm sáu nhóm năng lực cốt lõi: kết nối chuyên môn qua môi trường số; tạo và quản lý tài nguyên số; tổ chức dạy học trực tuyến; hỗ trợ người học phát triển năng lực số; đánh giá kết quả học tập qua công nghệ; phát triển nghề nghiệp qua công nghệ. Trong môi trường giáo dục quân sự, năng lực chuyển đổi số còn bao hàm những yêu cầu đặc thù như: bảo đảm bí mật quân sự, an toàn thông tin; tổ chức dạy học phù hợp tâm lý đối tượng sĩ quan; lồng ghép giáo dục chính trị tư tưởng trong bài giảng số; đáp ứng yêu cầu huấn luyện chiến đấu trên nền tảng công nghệ. Giảng viên trẻ là lực lượng có tiềm năng lớn trong chuyển đổi số giáo dục quân sự bởi họ thường có tư duy đổi mới, năng động, dễ tiếp cận công nghệ và có nhu cầu khẳng định năng lực chuyên môn. Trong thực tiễn, giảng viên trẻ là những người tiên phong ứng dụng mô hình lớp học đảo ngược, dạy học kết hợp, sử dụng hệ thống quản lý học tập (LMS), thiết kế học liệu số tương tác và kiểm tra đánh giá trực tuyến. Tuy nhiên, để phát huy đầy đủ tiềm năng này, công tác bồi dưỡng năng lực chuyển đổi số của giảng viên trẻ cần được thực hiện như một quá trình sư phạm có hệ thống, gắn với thực tiễn giảng dạy, có mục tiêu rõ ràng, nội dung phù hợp, phương pháp linh hoạt và đánh giá hiệu quả cụ thể.

Trong những năm gần đây, chuyển đổi số trong giáo dục đã bước đầu được triển khai tại một số nhà trường Quân đội, với các hoạt động như ban hành kế hoạch ứng dụng Công nghệ thông tin, thiết lập hệ thống quản lý học tập (LMS) và số hóa học liệu giảng dạy. Đội ngũ giảng viên trẻ, nhờ năng động và dễ thích ứng công nghệ, đã tích cực ứng dụng các nền tảng dạy học trực tuyến (Zoom, Teams, Google Meet), phần mềm văn phòng và bước đầu tiếp cận các công cụ thiết kế bài giảng số như Google Classroom, Kahoot, Moodle… Một số còn thử nghiệm phương pháp giảng dạy mới như lớp học đảo ngược, dạy học kết hợp, kiểm tra trực tuyến hoặc xây dựng ngân hàng đề thi trắc nghiệm. Những nỗ lực này cho thấy vai trò xung kích và tiềm năng lớn của lực lượng giảng viên trẻ trong tiến trình hiện đại hóa giáo dục quân sự.

Tuy vậy, thực tiễn cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Phần lớn giảng viên mới chỉ sử dụng công nghệ ở mức cơ bản, thiếu kỹ năng chuyên sâu như thiết kế bài giảng tương tác bằng phần mềm chuyên dụng, xây dựng khóa học trực tuyến hoàn chỉnh hay khai thác dữ liệu học tập từ LMS. Việc chuẩn hóa học liệu số, tổ chức lớp học số có tính tương tác cao còn hạn chế; tư duy sư phạm số chưa rõ nét, dẫn đến tình trạng ứng dụng công nghệ mang tính hình thức, hiệu quả thấp. Bên cạnh đó, nhiều nhà trường vẫn thiếu hạ tầng công nghệ đồng bộ, hệ thống LMS chưa hoàn thiện, học liệu số còn nghèo nàn, chưa có ngân hàng đề thi hoặc thư viện điện tử vận hành hiệu quả. Công tác bồi dưỡng năng lực chuyển đổi số còn hình thức, nội dung dàn trải, thiếu phân hóa đối tượng. Cơ chế khuyến khích đổi mới gắn với công nghệ chưa rõ ràng, thiếu động lực nội tại và thiếu môi trường hỗ trợ cũng là những rào cản lớn.

Trước yêu cầu cấp thiết của chuyển đổi số, việc nâng cao chất lượng bồi dưỡng năng lực chuyển đổi số cho giảng viên trẻ cần được triển khai toàn diện, có trọng tâm và chiều sâu. Đây là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược hiện đại hóa nhà trường Quân đội, đồng thời là điều kiện then chốt để phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ giảng viên trẻ trong nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ.

Thứ nhất, xây dựng chương trình bồi dưỡng chuyên sâu, có tính thực hành cao, phù hợp với trình độ và nhu cầu của từng nhóm giảng viên

Cần tiến hành khảo sát năng lực ban đầu để phân loại giảng viên theo ba nhóm: cơ bản, trung bình và nâng cao. Trên cơ sở đó, xây dựng các khóa học với nội dung khác biệt, từ hướng dẫn sử dụng phần mềm phổ biến (Zoom, PowerPoint, Google Meet) đến thiết kế bài giảng số nâng cao bằng công cụ chuyên nghiệp như H5P, Articulate Storyline, Genially hoặc Canva. Nội dung bồi dưỡng cần bao quát cả ba lĩnh vực: kỹ năng công nghệ, năng lực sư phạm số, và tư duy đổi mới sáng tạo trong dạy học. Việc tổ chức khóa học cần kết hợp giữa các hình thức: đào tạo tập trung để rèn luyện kỹ năng thực hành; học trực tuyến nhằm linh hoạt thời gian; và tự học có hướng dẫn để tăng tính chủ động. Mỗi khóa nên có sản phẩm đầu ra cụ thể như một bài giảng số hoàn chỉnh, một khóa học online, hoặc kế hoạch kiểm tra trực tuyến. Đồng thời, nên tổ chức các hoạt động học tập theo nhóm, học tập qua đồng nghiệp và chia sẻ kinh nghiệm sau bồi dưỡng để tạo ra cộng đồng thực hành nghề nghiệp. Đặc biệt, cần gắn kết nội dung bồi dưỡng với yêu cầu thực tiễn giảng dạy tại nhà trường, có đánh giá hiệu quả sau khóa học để điều chỉnh phù hợp. Qua đó, chương trình bồi dưỡng sẽ không chỉ giúp giảng viên trẻ nắm vững công cụ công nghệ mà còn nâng cao tư duy sư phạm số, sẵn sàng thích ứng với yêu cầu giảng dạy hiện đại trong quân đội.

Thứ hai, xây dựng và áp dụng bộ tiêu chí đánh giá năng lực chuyển đổi số của giảng viên trẻ một cách khoa học, phù hợp với đặc thù nhà trường Quân đội

Bộ tiêu chí này cần bao quát cả ba nhóm năng lực cơ bản: (1) năng lực công nghệ - bao gồm khả năng sử dụng phần mềm chuyên dụng, hệ thống LMS, và các nền tảng giảng dạy trực tuyến; (2) năng lực sư phạm số - thể hiện ở khả năng thiết kế bài giảng điện tử, tổ chức lớp học trực tuyến hiệu quả, đánh giá và hỗ trợ người học qua môi trường số; và (3) năng lực đổi mới - phản ánh ở việc sáng tạo phương pháp dạy học mới, ứng dụng hiệu quả công nghệ vào nội dung quân sự đặc thù, và khả năng lan tỏa, hỗ trợ đồng nghiệp. Bộ tiêu chí cần cụ thể, định lượng và có công cụ đánh giá rõ ràng, dễ áp dụng. Việc áp dụng bộ tiêu chí sẽ là cơ sở để đánh giá đúng thực trạng trình độ số hóa của từng giảng viên trẻ, từ đó xác định rõ nhóm cần bồi dưỡng, xây dựng lộ trình đào tạo cá nhân hóa và điều chỉnh nội dung cho phù hợp. Đây cũng là nền tảng để xét thi đua, khen thưởng, công nhận sản phẩm giảng dạy số có chất lượng. Đặc biệt, nếu được tích hợp vào quy chế đánh giá chất lượng giảng viên định kỳ, bộ tiêu chí này sẽ trở thành công cụ thúc đẩy mạnh mẽ việc ứng dụng chuyển đổi số trong giảng dạy. Thêm vào đó, cần có chính sách động viên cụ thể gắn với tiêu chí đánh giá như giảm định mức giờ giảng, hỗ trợ thời gian nghiên cứu khoa học hoặc ưu tiên tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về công nghệ giáo dục. Những biện pháp này sẽ tạo ra động lực thực chất cho giảng viên trẻ không ngừng nâng cao năng lực số, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quá trình hiện đại hóa nhà trường Quân đội.

Thứ ba, phát triển đội ngũ giảng viên nòng cốt về chuyển đổi số ở các nhà trường Quân đội

Đây là lực lượng tinh nhuệ, được lựa chọn kỹ lưỡng từ những giảng viên trẻ có phẩm chất tốt, năng lực công nghệ cao, tư duy đổi mới và có khả năng hướng dẫn, lan tỏa tri thức trong cộng đồng sư phạm. Đội ngũ này không chỉ đóng vai trò dẫn dắt trong triển khai mô hình dạy học số hiệu quả, mà còn là lực lượng tham mưu, tư vấn trực tiếp cho lãnh đạo nhà trường trong hoạch định chiến lược đào tạo, lựa chọn công nghệ phù hợp, biên soạn tài liệu hướng dẫn và hỗ trợ kỹ thuật giảng dạy. Cần xây dựng chương trình đào tạo chuyên sâu riêng cho đội ngũ này, bao gồm cả lý thuyết và thực hành, có sự cố vấn của chuyên gia công nghệ giáo dục, đồng thời tổ chức cho họ tham quan, học hỏi các mô hình điển hình trong và ngoài quân đội. Cùng với đó, nhà trường cần giao nhiệm vụ cụ thể như xây dựng bài giảng mẫu, tổ chức các lớp bồi dưỡng kỹ năng số, chủ trì các hội thảo chuyên đề, hỗ trợ kỹ thuật cho đồng nghiệp… để phát huy tối đa vai trò "hạt nhân đổi mới". Đặc biệt, cần thiết kế cơ chế đãi ngộ hợp lý như ưu tiên nghiên cứu khoa học, giảm định mức giờ giảng, xét thi đua, học nâng cao hoặc cử đi đào tạo quốc tế (nếu điều kiện cho phép). Việc phát triển đội ngũ giảng viên nòng cốt không chỉ là giải pháp nhân lực mang tính dài hạn, mà còn là nhân tố quyết định sự lan tỏa, bền vững và hiệu quả của tiến trình chuyển đổi số tại mỗi nhà trường Quân đội.

Thứ tư, đầu tư nâng cấp hạ tầng công nghệ và xây dựng hệ thống học liệu số đồng bộ

Đây là giải pháp có ý nghĩa nền tảng, tạo điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết cho quá trình bồi dưỡng và ứng dụng năng lực chuyển đổi số của giảng viên trẻ. Trong điều kiện hiện nay, nhiều nhà trường Quân đội vẫn còn gặp khó khăn về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, thiếu hệ thống quản lý học tập (LMS) chuyên biệt, thiếu kho học liệu số dùng chung hoặc các phần mềm hỗ trợ thiết kế bài giảng tương tác. Do đó, việc đầu tư xây dựng hạ tầng công nghệ cần được đặt ở vị trí ưu tiên hàng đầu trong chiến lược chuyển đổi số giáo dục quân sự. Mỗi nhà trường cần được trang bị hệ thống LMS hiện đại, có khả năng tích hợp đa chức năng như: quản lý tiến độ học tập, tổ chức thi cử trực tuyến, thống kê phân tích dữ liệu học tập, hỗ trợ tương tác giảng viên - học viên. Đồng thời, cần xây dựng kho học liệu số đa dạng, bao gồm bài giảng điện tử, tài liệu tham khảo số hóa, video mô phỏng, ngân hàng đề thi trắc nghiệm, hệ thống câu hỏi đánh giá thường xuyên… bảo đảm chuẩn hóa, dễ truy cập, cập nhật định kỳ và có tính chia sẻ trong toàn hệ thống trường. Ngoài ra, cần phát triển thư viện số chính quy, với phần mềm tra cứu thông minh, liên kết với các nguồn tài liệu uy tín trong và ngoài quân đội để phục vụ hoạt động nghiên cứu giảng dạy. Việc đồng bộ hạ tầng mạng nội bộ, máy chủ, hệ thống bảo mật thông tin và quy chế sử dụng học liệu cũng là điều kiện quan trọng nhằm bảo đảm an toàn, bảo mật dữ liệu trong môi trường giáo dục quân sự.

Thứ năm, phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể trong nhà trường Quân đội

Đây là lực lượng có khả năng tổ chức các hoạt động phong trào mang tính sư phạm sáng tạo, góp phần tạo động lực tự thân, môi trường học tập đồng đẳng và lan tỏa tinh thần đổi mới trong đội ngũ giảng viên trẻ. Để phát huy mạnh mẽ vai trò tổ chức đoàn thể, cần tăng cường sự phối hợp giữa các đoàn thể với phòng đào tạo, khoa chuyên môn và ban giám hiệu nhà trường trong việc xác định nội dung, hình thức và lịch trình các hoạt động đổi mới. Các tổ chức đoàn thể có thể đề xuất tổ chức nhóm học tập công nghệ, câu lạc bộ đổi mới sáng tạo, tổ tư vấn giảng dạy số hoặc các chương trình "giảng viên trẻ hướng dẫn giảng viên trẻ" để chia sẻ công cụ thiết kế bài giảng, kỹ năng vận hành LMS, xây dựng học liệu mở hoặc tổ chức lớp học kết hợp. Ngoài ra, cần lồng ghép tiêu chí về ứng dụng công nghệ, số hóa bài giảng, đổi mới phương pháp giảng dạy vào hệ thống đánh giá thi đua của chi đoàn, chi hội, tổ công đoàn, tổ bộ môn... Điều này không chỉ tạo động lực thi đua trong từng tập thể, mà còn giúp gắn kết giữa hoạt động chuyên môn với phong trào, làm cho chuyển đổi số trở thành nội dung nội sinh trong mọi hoạt động đoàn thể của nhà trường. Bên cạnh đó, các tổ chức đoàn thể còn đóng vai trò là cầu nối giữa giảng viên trẻ với lãnh đạo nhà trường, phản ánh kịp thời những khó khăn, đề xuất cơ chế hỗ trợ thiết thực như: cấp tài khoản sử dụng phần mềm thiết kế học liệu chuyên dụng, ưu tiên giảng viên trẻ tham gia hội thảo, lớp bồi dưỡng về công nghệ giáo dục, xây dựng thư viện bài giảng mẫu để chia sẻ nội bộ... Khi các tổ chức đoàn thể thực sự trở thành trung tâm hỗ trợ chuyên môn công nghệ cho giảng viên trẻ, thì phong trào đổi mới giảng dạy và phát triển năng lực chuyển đổi số sẽ có được nền tảng bền vững, nhân văn và giàu bản sắc trong môi trường giáo dục quân sự.

Chuyển đổi số trong giáo dục quân sự là xu thế tất yếu, đòi hỏi đội ngũ giảng viên trẻ phải chủ động nâng cao năng lực công nghệ, đổi mới phương pháp giảng dạy. Mặc dù đã có nhiều chuyển biến tích cực, nhưng thực tế cho thấy việc bồi dưỡng năng lực chuyển đổi số cho giảng viên trẻ còn thiếu hệ thống, chiều sâu và cơ chế hỗ trợ đồng bộ. Để nâng cao chất lượng bồi dưỡng, cần triển khai đồng bộ các giải pháp: xây dựng chương trình bồi dưỡng chuyên sâu, phân hóa theo trình độ; hoàn thiện tiêu chí đánh giá năng lực số; phát triển đội ngũ giảng viên nòng cốt; đầu tư hạ tầng công nghệ và học liệu số; phát huy vai trò tổ chức đoàn thể trong thúc đẩy phong trào học tập công nghệ. Đây là những yếu tố quan trọng để hình thành đội ngũ giảng viên trẻ có năng lực chuyển đổi số vững vàng, góp phần xây dựng nhà trường Quân đội hiện đại trong thời kỳ mới.

Thái Phi - Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng


Tài liệu tham khảo

    1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2024), Nghị quyết về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024, Hà Nội. 
    2. Bộ Tổng tham mưu (2022), Kế hoạch chuyển đổi số trong giáo dục đào tạo ở các nhà trường Quân đội giai đoạn 2022 - 2025, định hướng đến năm 2030, số 588/KH-BTTM, ngày 04/3/2022, Hà Nội. 
    3. Đảng bộ Quân đội (2020), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 
    4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, 2, Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.
    5. Quân ủy Trung ương (2022), Nghị quyết về đổi mới công tác giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Quân đội trong tình hình mới, số 1657-NQ/QUTW, ngày 20/12/2022, Hà Nội. 
    6. Quân ủy Trung ương (2022), Nghị quyết về nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2023 - 2030 và những năm tiếp theo, số 1659-NQ/QUTW, ngày 20/12/2022, Hà Nội.
    7. Quân ủy Trung ương (2025), Nghị quyết về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong Quân đội, số 3488- NQ/QUTW, ngày 29/01/2025, Hà Nội.