Nhận diện và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về chính sách dân tộc ở Việt Nam hiện nay

Thứ bảy, 14/06/2025 - 14:00

Vấn đề dân tộc là một trong những vấn luôn được Ðảng và Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo với quan điểm nhất quán, xuyên suốt là các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển. Các dân tộc Việt Nam là một cộng đồng thống nhất trong đa dạng, cư trú, phân tán, đan xen trên nhiều địa bàn của Tổ quốc. Lợi dụng vấn đề dân tộc, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị ra sức chống phá Đảng, Nhà nước ta nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta.

Từ khóa: Dân tộc; Đoàn kết dân tộc; Đồng bào các dân tộc

Trong thời gian gần đây, các thế lực thù địch và phần tử dân tộc cực đoan, nhất là một bộ phận trong cộng đồng dân tộc thiểu số Việt Nam sống lưu vong ở nước ngoài lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá cách mạng nước ta, chúng ráo riết kích động đồng bào các dân tộc thiểu số trong nước đứng lên đòi quyền dân tộc tự quyết, đòi thành lập "Nhà nước Tin lành Đề-ga", "Nhà nước Khmer Krôm", "Vương quốc Chămpa", "Vương quốc Mông", hướng tới ly khai, tự trị. Chúng tìm mọi cách để xây dựng, nuôi dưỡng các tổ chức phản động người Việt Nam ở nước ngoài; tập hợp, tài trợ, chỉ đạo lực lượng phản động trong các dân tộc, các tôn giáo ở trong nước hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam, như: truyền đạo trái phép để "tôn giáo hóa" các vùng dân tộc, lôi kéo, tranh giành đồng bào dân tộc, gây đối trọng với cấp ủy, chính quyền địa phương. Lợi dụng các phương tiện truyền thông, mạng xã hội để liên lạc, truyền bá, kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi; chia rẽ dân tộc đa số với dân tộc thiểu số và giữa các dân tộc thiểu số với nhau, giữa đồng bào theo tôn giáo với không theo tôn giáo và theo các tôn giáo khác nhau, hòng làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Không những thế, chúng còn kích động các dân tộc thiểu số, tín đồ, chức sắc các tôn giáo chống lại chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; đối lập các dân tộc, các tôn giáo với sự lãnh đạo của Đảng, vô hiệu hóa sự quản lý của Nhà nước đối với các lĩnh vực đời sống xã hội, gây mất ổn định chính trị - xã hội, nhất là vùng dân tộc, tôn giáo.

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, mỗi dân tộc có một lịch sử phát triển, bản sắc văn hóa riêng. Nhận thức rõ vai trò, vị trí của vấn đề dân tộc, trong đó có vai trò, vị trí quan trọng của các dân tộc thiểu số trong quá trình dựng nước, giữ nước ở Việt Nam. Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề dân tộc, theo người: "Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là tất cả đồng bào các dân tộc đều là người chủ nước nhà"[1], "Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau"[2]. Chúng ta cần thực hiện nguyên tắc tôn trọng giữa các dân tộc ở Việt Nam vì 54 dân tộc ở Việt Nam chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng nên cần phải tôn trọng lợi ích của nhau trong quá trình phát triển, tôn trọng bản sắc văn hóa riêng. Giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích giữa các giai tầng trong xã hội. Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển.

Do những đặc điểm lịch sử, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam thường cư trú ở vùng miền núi và biên giới, nơi có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Suốt chiều dài của lịch sử dân tộc, những vùng đất biên cương thiêng liêng của Tổ quốc đã được lớp lớp thế hệ đồng bào các dân tộc thiểu số kiên cường và bền bỉ, đoàn kết đấu tranh, xây dựng trở thành phên dậu của đất nước. Đồng bào các dân tộc thiểu số đã góp phần rất lớn vào cuộc đấu tranh, giành và giữ độc lập của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc được thực tiễn đó, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người đã không ngừng phấn đấu thực hiện vì một chính sách dân tộc đúng đắn và sáng tạo.

Trong thời kỳ đổi mới, việc nhận thức về công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc đã có bước đột phá, tạo cơ hội, tiền đề và hiệu quả về chất so với các thời kỳ trước. Quan điểm định hướng nội dung về công tác dân tộc trong giai đoạn mới được Đảng đánh giá, nhìn nhận một cách khoa học, khách quan, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tượng trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc, "Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo; có những chính sách đặc thù giải quyết khó khăn cho đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cản trở sự phát triển của đất nước"[3].

Để làm thực hiện chính sách dân tộc, nhận diện và phản bác các quan điểm sai trái thù địch cần thực hiện tốt một số giải pháp như sau:

Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, quán triệt quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về chính sách dân tộc.

Trong thời kỳ đổi mới, để nâng cao chính sách dân tộc, chúng ta cần phải tuyên truyền, thực hiện có hiệu quả hơn nữa và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương để thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân tộc trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.

Nội dung tuyên truyền, giáo dục phải mang tính toàn diện, tổng hợp, tập trung vào phổ biến sâu rộng các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc, chính sách dân tộc, tôn giáo cho đồng bào các dân tộc. Phổ biến pháp luật và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của Nhà nước, khơi dậy lòng tự tôn, tự hào dân tộc, truyền thống đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tập trung tuyên truyền, giáo dục vào một số nội dung như: Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị "Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới". Đồng thời, thực hiện tốt các nghị quyết, các chương trình mục tiêu quốc gia như: Chương trình Mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030; Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững; Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện các chính sách còn hiệu lực đối với vùng đồng bào dân tộc và miền núi. Trong đó, tập trung cao độ thực hiện thắng lợi các mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội khóa XIV. Kết luận của Bộ Chính trị số 65-KL/TW, ngày 12/3/2003 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới; Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 20/10/2015 của Ban Bí thư về tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Đảng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, "Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hoá, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng tính đặc thù của từng vùng dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc"[4]. Quan điểm, chủ trương, chính sách cơ bản của Đảng về dân tộc và công tác dân tộc phải được thể chế hóa trong nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị định, nghị quyết, quyết định, chỉ thị, thông tư… của các cơ quan có thẩm quyền.

Xây dựng đội ngũ cán bộ tuyên truyền có kiến thức chuyên sâu, am hiểu phong tục, tập quán, tâm lý của đồng bào và phải biết nghe, biết nói thông thạo tiếng đồng bào để tuyên truyền và xử lý mọi tình huống. Cán bộ tuyên truyền phải hướng về cơ sở, thực hiện tốt chủ trương 3 bám "bám buôn, bám dân, bám đối tượng" và 4 cùng "cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc"; thường xuyên nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của đồng bào, phải thực sự gương mẫu, nói đi đôi với làm, nói ít, làm nhiều thì đồng bào mới tin, có như vậy công tác tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số mới mang lại hiệu quả cao.

Chú trọng xây dựng đội ngũ tuyên truyền là những người có uy tín trong cộng đồng (như già làng, trưởng buôn…), đặc biệt là phụ nữ người dân tộc có uy tín trong cộng đồng và các đoàn viên, hội viên của các tổ chức đoàn thể ở cơ sở. Cấp uỷ, chính quyền cơ sở phải quan tâm đến việc bồi dưỡng, gặp gỡ những người có uy tín trong cộng đồng, nhất là tập hợp lực lượng thanh niên các buôn làng, chọn lựa những thanh niên tốt tham gia lớp tập huấn nâng cao nhận thức chính trị, đường lối chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, khơi dậy ý chí thanh niên lập nghiệp xây dựng cuộc sống mới.

Thứ hai, thường xuyên chăm lo xây dựng, nâng cao chất lượng về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Cấp ủy, chính quyền địa phương phải sâu sát, thường xuyên bám dân, bám địa bàn, thực hiện tốt "bốn cùng" với đồng bào, góp phần đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với đồng bào các dân tộc thiểu số; tuyên truyền, vận động đồng bào tích cực tham gia thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội kết hợp với tăng cường quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn. Các tổ, đội công tác, cán bộ tăng cường bám, nắm xây dựng cơ sở, cơ quan quân sự địa phương, các đơn vị đóng quân trên địa bàn, nhất là vùng biên giới cần làm tốt việc tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền địa phương củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở, đảm bảo đủ năng lực lãnh đạo, điều hành, quản lý mọi mặt đời sống xã hội. Vấn đề rất quan trọng là cần chú trọng bồi dưỡng, tranh thủ sự hợp tác và ủng hộ của tầng lớp già làng, trưởng bản. Điều đó đúng với các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, bởi những người này có vị trí quan trọng trong đời sống xã hội ở các buôn, làng. Vì thế, phải tranh thủ sự ủng hộ, lôi cuốn họ tích cực tham gia việc xây dựng tình đoàn kết trong cộng đồng và củng cố khối đoàn kết với các tộc người khác trong cộng đồng cư dân trên đại bàn. Muốn vậy, cần quan tâm về chế độ, chính sách và có đầu mối tập trung, định hướng chỉ đạo, hướng dẫn của các cấp uỷ, chính quyền địa phương đối với đối tượng này, nhằm không ngừng tăng cường khối đoàn kết các dân tộc.

Thứ ba, tăng cường xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, giữ vững ổn định chính trị - xã hội.

Đây là một trong những giải pháp quan trọng nhằm tăng nội lực, tạo sức đề kháng trước mọi âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của kẻ thù. Cần tuân thủ những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc theo quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải dựa trên nền tảng khối liên minh công - nông - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; thực hiện đại đoàn kết phải rộng rãi, lâu dài; mở rộng, da dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; kiên quyết đấu tranh loại trừ nguy cơ phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, chống kì thị, chia rẽ dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, tự ti hoặc mặc cảm dân tộc. Chủ động giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở các vùng dân tộc, bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia. Thực hiện nghiêm túc quan điểm: Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam,… tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: Đại đoàn kết dân tộc là chủ trương chiến lược, có ý nghĩa sống còn, quyết định sự thành bại của cách mạng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối chiến lược cách mạng của Đảng ta. Là biểu trưng sinh động của tư tưởng đoàn kết thống nhất toàn dân tộc. Bởi vậy, đòi hỏi chúng ta phải có quyết tâm cao hơn nữa, nỗ lực lớn hơn nữa, đoàn kết thống nhất chặt chẽ hơn nữa để phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.

Thứ tư, đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội, thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số.

Đẩy nhanh tiến độ và hiệu quả các chương trình, dự án an sinh xã hội; ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng dân tộc, tạo mọi điều kiện để đồng bào các dân tộc nhanh chóng xóa đói giảm nghèo, tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, nhất là đối tượng người cao tuổi, trẻ em và phụ nữ vùng sâu, vùng xa; tích cực phổ cập giáo dục phổ thông, nâng cao dân trí, không để "tái mù" và xảy ra tình trạng "bản trắng" ở vùng sâu, vùng xa. Chăm lo đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào có đạo; tạo điều kiện thuận lợi để đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào có đạo tổ chức các lễ hội truyền thống và các hoạt động văn hóa - thể thao, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể mang đậm bản sắc dân tộc. Đây cũng là một trong những giải pháp quan trọng, có ý nghĩa nền tảng để vô hiệu hóa các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, vì xét đến cùng khi đời sống vật chất, tinh thần được nâng cao, đồng bào sẽ đoàn kết, tin tưởng vào chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, thực hiện tốt quyền lợi, nghĩa vụ công dân thì không kẻ thù nào có thể lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá.

Thứ năm, chủ động đấu tranh trên mặt trận chính trị, tư tưởng, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc chống phá cách mạng của các thế lực thù địch, kịp thời giải quyết tốt các "điểm nóng" liên quan đến vấn đề dân tộc.

Cần làm tốt công tác nắm bắt tình hình, chủ động phòng ngừa, đấu tranh phát hiện, đi trước đón đầu và kịp thời xử lý những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc xâm phạm an ninh quốc gia. Khi phát hiện, cần tìm hiểu nguyên nhân, có biện pháp giải quyết kịp thời, triệt để, tránh để tạo cớ can thiệp, đồng thời kiên quyết xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm. Có những chính sách khoan hồng, giúp đồng bào trót nghe theo lời kẻ xấu quay trở về, tái hòa nhập cộng đồng.

Kịp thời phát hiện, dập tắt mọi âm mưu, hành động lợi dụng vấn đề dân tộc, kích động lôi kéo đồng bào gây rối, bạo loạn, thường xuyên vạch trần bộ mặt phản động của các thế lực thù địch, phản động để nhân dân nhận rõ và không bị lừa bịp. Đồng thời, vận động, bảo vệ đồng bào các dân tộc để đồng bào tự vạch mặt những thủ đoạn xảo trá của chúng. Phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong cuộc đấu tranh này. Khi xuất hiện "điểm nóng", cần tìm rõ nguyên nhân, có biện pháp giải quyết kịp thời, không để lan rộng, không để kẻ thù lấy cớ can thiệp; xử lý nghiêm minh theo pháp luật những kẻ cầm đầu, ngoan cố chống phá cách mạng. Đồng thời, kiên trì thuyết phục, vận động những người nhẹ dạ, cả tin nghe theo kẻ xấu quay về với cộng đồng; đối xử khoan hồng, độ lượng, bình đẳng với những người lầm lỗi đã ăn năn, hối cải, phục thiện.

Vấn đề dân tộc là rất quan trọng, nhưng cũng rất nhạy cảm, dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá, nhằm mưu đồ chuyển hóa chế độ, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với toàn xã hội, xâm phạm đến an ninh quốc gia của Việt Nam. Đây là âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch, với nhiều thủ đoạn, nhất là xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề dân tộc, kích động đồng bào các dân tộc tham gia các cuộc biểu tình, bạo loạn gây thiệt hại về kinh tế, mất ổn định về chính trị - xã hội... Để vô hiệu hóa những âm mưu, thủ đoạn đó, cần thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về vấn đề dân tộc; quan tâm phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tăng cường tuyên truyền, giáo dục tư tưởng chính trị, pháp luật; chủ động đấu tranh, phòng ngừa, xử lý kịp thời khi xuất hiện các điểm nóng... Thực hiện tốt các giải pháp nêu trên sẽ góp phần làm thất bại chiến lược "Diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào.

                       Thiếu tá, CN Lâm Thanh Lương 

Học viện Chính trị - BQP   


[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 94.

[2] SĐD, tập 3, tr. 249.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Hà Nội, 2021, tr. 49.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Hà Nội, 2021, tr. 169.