Phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng cộng sản Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay

Thứ tư, 20/08/2025 - 13:12

Bài viết phân tích quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc trên cơ sở văn kiện Đại hội XIX, XX và các nghiên cứu liên quan. Bên cạnh những thành tựu nổi bật, vẫn tồn tại các nguy cơ quan liêu, tha hóa, phân hóa xã hội và bất bình đẳng. Từ kinh nghiệm Trung Quốc, bài viết rút ra những giá trị tham chiếu cho Việt Nam trong việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền, phòng chống tham nhũng toàn diện và củng cố công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

1. Mở đầu

Trong tiến trình cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội, phương thức lãnh đạo – cầm quyền luôn giữ vai trò trung tâm, quyết định trực tiếp đến tính chính danh và hiệu quả quản trị của đảng cộng sản cầm quyền. Lịch sử cận – hiện đại đã chứng minh một quy luật có tính phổ quát: sau khi giành được chính quyền, nếu đảng cộng sản không kịp thời đổi mới phương thức lãnh đạo, không duy trì mối quan hệ máu thịt với nhân dân, không thích ứng linh hoạt với biến động của thời đại và xu thế phát triển toàn cầu, thì nguy cơ tha hóa, quan liêu, suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống cũng như sự xa rời quần chúng là khó tránh khỏi [1, tr.45]. Chính vì vậy, câu chuyện về phương thức cầm quyền không chỉ là vấn đề kỹ thuật tổ chức hay quản trị nhà nước, mà trước hết là vấn đề bảo đảm tính chính danh lâu dài của đảng cầm quyền trước nhân dân – nguồn gốc của mọi quyền lực chính trị.

Với vị thế là đảng cầm quyền lớn nhất thế giới, lãnh đạo quốc gia có dân số và quy mô kinh tế hàng đầu, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) sớm nhận thức rằng duy trì quyền lãnh đạo không thể chỉ dựa vào truyền thống cách mạng hoặc thành tựu tăng trưởng, mà đòi hỏi một quá trình cải cách, đổi mới liên tục về tổ chức, phương thức và công cụ cầm quyền. Đồng thời, ĐCSTQ coi việc củng cố "hợp đồng chính trị" với nhân dân là yếu tố cốt lõi để bảo đảm sự chính danh: Đảng tồn tại, lãnh đạo và phát triển được hay không, trước hết phụ thuộc vào việc nhân dân có còn tin tưởng, ủng hộ và thừa nhận vai trò lãnh đạo ấy.

Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu cấu trúc và động lực chuyển đổi phương thức cầm quyền của ĐCSTQ không chỉ có ý nghĩa nhận thức khoa học – góp phần soi sáng quy luật vận động của một đảng cộng sản trong điều kiện hiện đại – mà còn mang giá trị tham chiếu trực tiếp đối với Việt Nam. Bởi lẽ, cả Việt Nam và Trung Quốc đều đứng trước thách thức tương đồng: vừa phải củng cố sự chính danh cầm quyền, vừa phải đổi mới mô hình quản trị xã hội chủ nghĩa, nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền, đáp ứng những yêu cầu của thời kỳ phát triển mới.

2. Phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong giai đoạn mới và những vấn đề đặt ra

Điểm mới trong tư duy cầm quyền của ĐCSTQ là mục tiêu tối thượng: duy trì và củng cố địa vị cầm quyền lâu dài, song hành với việc bảo đảm vai trò làm chủ của nhân dân và quản lý đất nước theo pháp luật [12, tr.5]. Trong tư duy cầm quyền hiện nay của Đảng Cộng sản Trung Quốc, "hiệu quả" không chỉ gắn với tốc độ tăng trưởng mà được hiểu như một thước đo tổng hợp về chất lượng, khả năng chống chịu và năng lực bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, đồng thời cung ứng dịch vụ công thiết yếu với chi phí thấp [12, tr.5]. Trọng tâm từ "tốc độ" sang "chất lượng" phản ánh mục tiêu phát triển bền vững, trong đó đổi mới công nghệ, bảo vệ môi trường, an ninh năng lượng và quản trị rủi ro hệ thống trở thành trụ cột. Hiệu quả, với nghĩa đúng, đủ và kịp thời, được coi là minh chứng trực tiếp cho năng lực quản trị quốc gia. Song hành với hiệu quả, "công bằng" được xác lập như nguyên tắc thiết kế chính sách ngay từ đầu, bao gồm công bằng phân phối và công bằng cơ hội, nhằm giảm bất bình đẳng, điều tiết lợi ích nhóm, mở rộng tiếp cận giáo dục, y tế, an sinh và dịch vụ công nghệ số [12, tr.5]. Khi được cụ thể hóa bằng những chương trình giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới hay chính sách đầu tư cho vùng khó khăn, công bằng không chỉ giúp thu hẹp khoảng cách giàu nghèo mà còn góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Trong cách nhìn này, công bằng trở thành một nguồn sức mạnh chính trị – xã hội quan trọng, có giá trị chính danh không kém gì thành tựu tăng trưởng kinh tế. Điều quan trọng là hiệu quả và công bằng không tồn tại tách biệt mà gắn bó chặt chẽ với nhau. Hiệu quả giúp tạo ra sự thịnh vượng, còn công bằng bảo đảm sự thịnh vượng ấy được chia sẻ hợp lý và được xã hội chấp nhận. Khi cả hai yếu tố cùng hội tụ, chính danh cầm quyền được xây dựng không chỉ dựa trên tốc độ phát triển, mà còn dựa trên chất lượng cuộc sống và sự đồng thuận của nhân dân. Khi gắn với pháp quyền và dân chủ, hiệu quả và công bằng trở thành nền tảng chính danh của Đảng. Pháp luật đặt ra chuẩn mực tối thiểu về công bằng và minh bạch, còn tham vấn xã hội giúp chính sách gần dân, đáp ứng nhu cầu thực tế. Trong bối cảnh đó, "chung thịnh vượng" được coi là biểu hiện cụ thể của mô hình phát triển mới: tăng trưởng hợp lý, phân phối bao trùm và có thể kiểm chứng bằng chất lượng dịch vụ công, cơ hội và mức sống [14, tr.41]. Điểm mới trong tư duy cầm quyền của ĐCSTQ là thể chế hóa hiệu quả và công bằng vào toàn bộ chỉ tiêu, quy trình và trách nhiệm giải trình, biến chính danh từ tuyên ngôn thành kết quả cụ thể, có thể đo lường và thuyết phục nhân dân.

Trong giai đoạn hiện nay, phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc được định hình trên cơ sở ba nguyên tắc đồng trục. Một là, kiên trì sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, đặt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở vị trí trung tâm, coi "tự cách mạng" là cơ chế bảo đảm tính trong sạch, tính tiên phong [13, tr.27]. Hai là, gắn phương thức cầm quyền với điều kiện lịch sử, văn hóa và thực tiễn đặc thù của Trung Quốc, kiên định con đường chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, giữ vững độc lập, tự chủ, không rập khuôn mô hình bên ngoài [11, tr.14]. Ba là, củng cố và mở rộng nguồn lực cầm quyền từ nhân dân, coi nhân dân vừa là điểm xuất phát, vừa là mục tiêu cuối cùng của mọi cải cách [9, tr.55].

Ba nguyên tắc này được thể chế hóa thành cấu trúc ba trụ cột: dân chủ, khoa học và pháp quyền. Với dân chủ, Đảng phát triển mô hình "dân chủ nhân dân toàn quá trình", nhấn mạnh sự tham gia của nhân dân xuyên suốt các khâu từ tham vấn, hiệp thương đến quyết định và giám sát thực thi, qua đó nâng cao "độ nhạy dân sinh" của chính sách và giảm thiểu rủi ro [11, tr.33]. Với khoa học, Đảng đề cao quản trị dựa trên thực chứng, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, dự báo xu thế, đồng thời vận dụng "ba quy luật" như khung tư duy nền tảng [14, tr.41]. Với pháp quyền, Đảng đặt Hiến pháp làm trung tâm, coi pháp luật là công cụ chủ yếu của quản trị, gắn với hoàn thiện hệ thống pháp luật, củng cố tư pháp công bằng, xây dựng Nhà nước pháp trị và xã hội pháp trị như những điều kiện thiết yếu cho phát triển bền vững [8, tr.112]. Kết quả đạt được thể hiện trên cả tốc độ và chất lượng phát triển. Trung Quốc đã vươn lên trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, với những thành tựu nổi bật về hạ tầng, công nghiệp hóa, đổi mới công nghệ và quản trị vĩ mô linh hoạt [14, tr.55]. Đồng thời, tính chuẩn tắc trong quy trình cầm quyền ngày càng được nâng cao: tham vấn xã hội mở rộng, chuẩn mực chính sách được siết chặt, luật hóa nhiều lĩnh vực rủi ro cao. Đặc biệt, các chiến dịch chống tham nhũng quy mô lớn như "đả hổ, diệt ruồi, săn cáo" đã tạo hiệu ứng chính trị sâu rộng, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào kỷ luật Đảng và kỷ cương Nhà nước [10, tr.78]. Như vậy, phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong giai đoạn mới là sự kết hợp chặt chẽ giữa giữ vững nguyên tắc lãnh đạo toàn diện, kiên định bản sắc độc lập tự chủ, và gắn bó mật thiết với nhân dân; đồng thời, vận hành đồng bộ trên nền tảng dân chủ, khoa học và pháp quyền, qua đó khẳng định năng lực lãnh đạo và củng cố tính chính danh cầm quyền trong bối cảnh mới.

Bên cạnh những thành tựu nổi bật, phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn còn đối diện với những rủi ro mang tính cấu trúc và hệ thống. Trước hết là nguy cơ quan liêu hóa và xa rời quần chúng. Tình trạng "độ trễ hành chính", quán tính mệnh lệnh, tâm lý né tránh trách nhiệm khiến bộ máy quản lý chậm phản ứng trước biến động của xã hội và thị trường [12, tr.23]. Mặc dù Đảng nhiều lần nhấn mạnh yêu cầu tự cách mạng, siết chặt kỷ luật, chuẩn hóa quy trình và tăng cường kiểm tra, giám sát, nhưng trên thực tế, việc triển khai vẫn chưa đồng đều giữa các cấp, các ngành, đặc biệt ở những lĩnh vực gắn với lợi ích và quyền lực lớn [10, tr.83]. Thứ hai là bất cân đối giữa tăng trưởng và công bằng. Cùng với sự phát triển nhanh về kinh tế, khoảng cách giàu – nghèo có xu hướng gia tăng, chênh lệch vùng miền còn rõ rệt, trong khi người dân phải chịu thêm áp lực về y tế, giáo dục và các vấn đề môi trường. Khi những "chi phí ngoại vi" này tích tụ, chất lượng phát triển suy giảm, sự đồng thuận xã hội đối với cải cách cũng bị ảnh hưởng, buộc nhà nước phải điều chỉnh phân bổ nguồn lực theo hướng bao trùm, công bằng và bền vững hơn [14, tr.55]. Thứ ba là nguy cơ tha hóa quyền lực. Trong bối cảnh quyền lực tập trung cao, nếu thiếu các cơ chế kiểm soát tinh vi và hiệu lực, thì theo lý luận Mác – Lênin, "quy luật tha hóa" rất dễ xuất hiện, gây tổn hại trực tiếp đến niềm tin chính trị và sự nghiêm minh của pháp luật [1, tr.55].

Từ những rủi ro trên, yêu cầu đổi mới phương thức cầm quyền đặt ra theo bốn hướng lớn. Thứ nhất, cần nâng cao tính khoa học trong ra quyết định. Điều này bao gồm việc coi đánh giá tác động chính sách là khâu bắt buộc, mở rộng dữ liệu công khai, đồng thời ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số và trí tuệ nhân tạo để giám sát thực thi, nhằm giảm độ trễ chính sách và sai lệch thông tin [14, tr.41]. Thứ hai, phát triển dân chủ thực chất trong toàn bộ quy trình chính sách. Dân chủ không chỉ dừng ở bầu cử mà còn thể hiện ở việc tham vấn nhiều vòng, bắt buộc có phản hồi, đo lường mức độ hài lòng của người dân. Nhờ vậy, sự tham gia của xã hội được biến thành nguồn lực thực tiễn để nâng cao chất lượng quản trị [11, tr.33]. Thứ ba, phải củng cố nền tảng pháp quyền. Cần bảo đảm tính nhất quán của hệ thống pháp luật, nâng cao tính độc lập và liêm chính của tư pháp, để pháp luật thực sự trở thành công cụ cầm quyền chủ yếu và là chuẩn mực nền tảng cho sự phát triển bền vững [8, tr.112]. Thứ tư, kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng phải được thể chế hóa bền vững, thay vì chỉ dựa vào các chiến dịch. Mô hình "không thể, không dám, không muốn, không cần tham nhũng" chỉ có hiệu quả khi được vận hành bởi nhiều tầng nấc kiểm soát: từ trong Đảng, qua nhà nước (lập pháp, tư pháp, kiểm toán), đến xã hội (nhân dân, báo chí, Mặt trận), kết hợp với công nghệ dữ liệu và cơ chế minh bạch [7, tr.12]. Yêu cầu tự cách mạng vì thế cũng cần được cụ thể hóa bằng trách nhiệm giải trình cá nhân gắn với kết quả, kỷ luật nghiêm minh và cơ chế sửa sai kịp thời [13, tr.27]. Nhìn một cách tổng thể, phương thức cầm quyền giai đoạn mới của Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể được khái quát thành "ba trụ, bốn tầng kiểm soát". Ba trụ gồm dân chủ, khoa học và pháp quyền, là nền tảng vận hành của quản trị quốc gia hiện đại. Bốn tầng kiểm soát gồm kiểm soát trong Đảng, kiểm soát của nhà nước, kiểm soát xã hội và kiểm soát bằng công nghệ – dữ liệu, đóng vai trò như cơ chế an toàn bảo đảm quyền lực không bị lạm dụng [12, tr.5]. Mô hình này cho phép Trung Quốc vừa duy trì được tốc độ phát triển, vừa phải đối diện với thách thức giải quyết "chi phí thể chế" trong một hệ thống quản trị đang chuyển đổi, nơi các yêu cầu về minh bạch thông tin, kỷ luật ngân sách, pháp lý chuẩn tắc và đồng thuận xã hội ngày càng khắt khe.

3. Bài học kinh nghiệm và định hướng vận dụng cho Việt Nam

Thứ nhất, về dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Tinh thần "dân chủ toàn quá trình" gợi mở cho chúng ta một hướng tiếp cận mang tính thiết kế thể chế, trong đó dân chủ không chỉ dừng ở bầu cử mà phải thấm vào toàn bộ vòng đời của chính sách, từ chuẩn bị, soạn thảo đến tổ chức thực hiện và giám sát sau ban hành. Cốt lõi là biến sự tham gia của nhân dân thành một cấu phần bắt buộc của quy trình quản trị, có chuẩn mực, có trách nhiệm giải trình, qua đó nâng cao độ nhạy dân sinh và củng cố chính danh từ kết quả và từ quy trình [9, tr.55]. Trước hết, cần thể chế hóa tham vấn nhiều vòng trong chu trình chính sách. Điều này đòi hỏi các cơ quan chủ trì soạn thảo phải công bố sớm mục tiêu chính sách, phương án lựa chọn và bản thuyết minh căn cứ; tổ chức tham vấn theo nhiều vòng, từ tiền soạn thảo đến giai đoạn hoàn thiện dự thảo; đặc biệt, phải có nghĩa vụ phản hồi bằng văn bản đối với những góp ý có cơ sở lập luận và dữ liệu, nêu rõ tiếp thu hay không tiếp thu, lý do và căn cứ chuyên môn. Cách làm này chuyển sự tham gia từ hình thức sang thực chất, đồng thời tạo ra kỷ luật đối thoại giữa nhà nước với công dân và cộng đồng chuyên gia [13, tr.27]. Tiếp theo, cần chuẩn hóa đánh giá tác động quy phạm ngay từ giai đoạn tiền chính sách. Đánh giá tác động phải đứng ở vai trò điều kiện đầu vào, giúp xác định vấn đề, lượng hóa chi phí và lợi ích, so sánh phương án, dự tính rủi ro và xác lập các chỉ số theo dõi. Trên nền đó, công khai bộ dữ liệu sử dụng trong đánh giá là yêu cầu không thể thiếu, để cộng đồng học thuật, doanh nghiệp và người dân có thể phản biện trên cùng một nền dữ liệu, giảm bất cân xứng thông tin và hạn chế nguy cơ bị chi phối bởi lợi ích cục bộ. Chuẩn mực này làm tăng chất lượng thẩm định và giúp quyết định công dựa trên chứng cứ, thay vì chỉ dựa vào cảm tính hay tiền lệ [9, tr.55]. Sau cùng, cần thiết lập cơ chế giám sát xã hội sau ban hành theo thước đo đầu vào và đầu ra. Ở cấp cơ sở, các cơ quan thực thi phải định kỳ công bố mức độ tuân thủ, chi phí tuân thủ, thời gian xử lý, số lượng hồ sơ và chỉ số hài lòng của người dân theo từng dịch vụ. Dữ liệu phải mở, định dạng có thể xử lý, cho phép so sánh theo thời gian và giữa các địa phương. Khi giám sát xã hội trở thành thông lệ, người dân không chỉ góp ý ở giai đoạn làm luật mà còn đồng hành trong quá trình thực thi, nhờ vậy kịp thời phát hiện điểm nghẽn, lãng phí và rủi ro để điều chỉnh chính sách theo hướng bao trùm và hiệu quả hơn [13, tr.27].

Ba yêu cầu thiết kế nói trên hợp thành một chuỗi khép kín từ tham vấn đến đánh giá và giám sát, giúp dân chủ vận hành như một cơ chế quản trị chứ không chỉ như một khẩu hiệu chính trị. Khi được thực hiện nghiêm túc, chúng trực tiếp nâng độ nhạy dân sinh của chính sách, tăng tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước, qua đó củng cố chính danh cầm quyền theo đúng tinh thần "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng" [9, tr.55]; đồng thời phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện đại, kỷ luật và liêm chính [13, tr.27].

Thứ hai, về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy pháp luật chỉ phát huy hiệu lực khi có sự thống nhất chặt chẽ trong hệ thống pháp lý và được thực thi công bằng, không bị chi phối bởi lợi ích cục bộ. Với Việt Nam, điều này đòi hỏi trước hết phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng đồng bộ, minh bạch, dễ thực hiện, lấy Hiến pháp làm nền tảng tối cao để điều chỉnh toàn bộ đời sống chính trị – xã hội [8, tr.112]. Cùng với đó, cần tăng cường tính độc lập và sự liêm chính của hệ thống tư pháp. Các phán quyết của tòa án phải dựa trên chứng cứ và chuẩn mực pháp luật, không bị tác động bởi lợi ích nhóm hay áp lực hành chính, qua đó tạo dựng niềm tin của nhân dân vào công lý [9, tr.55]. Một hướng quan trọng khác là thúc đẩy chuyển đổi số trong quản trị công, nhất là các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực như đấu thầu, đất đai, đầu tư công và thủ tục hành chính. Số hóa và công khai dữ liệu giúp giảm thiểu tình trạng "xin – cho", đồng thời tạo nền tảng cho thanh tra, kiểm toán theo thời gian thực, làm cho quản trị minh bạch và hiệu quả hơn [8, tr.115].

Thứ ba, về phòng – chống tham nhũng.

Kinh nghiệm cho thấy có thể xây dựng một mô hình phòng – chống tham nhũng nhiều tầng. Tầng thứ nhất là "không thể tham nhũng", tức là hệ thống pháp luật, cơ chế số hóa và công khai dữ liệu phải chặt chẽ để tham nhũng không có cơ hội xảy ra. Tầng thứ hai là "không dám tham nhũng", được bảo đảm bởi kỷ luật nghiêm khắc, chế tài mạnh mẽ và cơ chế bảo vệ người tố giác. Tầng thứ ba là "không muốn tham nhũng", thông qua giáo dục liêm chính và hình thành văn hóa đạo đức nghề nghiệp. Tầng thứ tư là "không cần tham nhũng", nghĩa là cải cách tiền lương, chế độ đãi ngộ để cán bộ, công chức có thể sống bằng thu nhập hợp pháp và gắn lợi ích cá nhân với lợi ích chung của tổ chức. Cách tiếp cận này đưa phòng – chống tham nhũng từ chỗ là "chiến dịch" sang trở thành chế độ thường xuyên, có cơ chế kiểm soát chéo và trách nhiệm giải trình được đo lường bằng chỉ số cụ thể [14, tr.41].

Thứ tư, về xây dựng và chỉnh đốn Đảng.

Muốn Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, cần đồng thời vận hành bốn trụ cột. Trụ cột chính trị đặt tiêu chuẩn chính trị lên trên hết, đặc biệt nhấn mạnh vai trò nêu gương của người đứng đầu. Trụ cột tư tưởng yêu cầu trang bị cho toàn Đảng những lý luận mới, gắn liền với tổng kết thực tiễn để mỗi cán bộ, đảng viên vừa có bản lĩnh chính trị, vừa có tri thức. Trụ cột tổ chức tập trung vào kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, bảo đảm luân chuyển minh bạch, công khai, dựa trên vị trí việc làm, ngăn chặn tình trạng "chạy chức, chạy quyền" hay cục bộ địa phương. Trụ cột kỷ luật – pháp luật nhấn mạnh việc đặt toàn bộ quyền lực trong "chiếc lồng thể chế", coi đây là hàng rào ngăn chặn nguy cơ lạm quyền. Nguyên tắc "đúng quy trình" chỉ có ý nghĩa khi không bị biến thành bình phong che giấu sai phạm, mà thực sự trở thành chuẩn mực bắt buộc, ràng buộc trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức [3, tr.33]. Thực tiễn cho thấy, nhiều vụ việc tiêu cực nảy sinh khi quy trình bị hình thức hóa, dẫn đến khoảng trống trách nhiệm; vì vậy, yêu cầu "lồng thể chế" trở thành giải pháp then chốt nhằm ngăn ngừa tha hóa quyền lực [7, tr.12]. Đồng thời, sự kiểm soát quyền lực chỉ có hiệu lực khi được thực thi nghiêm minh, đặt trong tổng thể kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước [11, tr.18]. Đó cũng là lý do Đảng Cộng sản Trung Quốc nhiều lần nhấn mạnh việc song hành giữa xây dựng quy trình và siết kỷ luật, coi "tự cách mạng" là cơ chế bảo đảm tính trong sạch, tính tiên phong của Đảng [12, tr.67]. Song song với yêu cầu siết chặt kỷ luật – pháp luật, việc nâng cao năng lực kỹ trị cho đội ngũ cán bộ là một khâu đột phá. Cán bộ không chỉ cần phẩm chất chính trị vững vàng, mà còn phải được trang bị đầy đủ kỹ năng từ hoạch định chính sách, tổ chức thực thi cho tới đánh giá tác động và kết quả. Chỉ khi đó, đạo đức công vụ mới thực sự được nâng tầm: không dừng lại ở cam kết chính trị hay lời hứa liêm chính, mà được chứng minh bằng năng lực thực thi hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu quản trị hiện đại.

Nhìn từ kinh nghiệm Trung Quốc, có thể gợi mở cho Việt Nam một khung vận hành tích hợp. Đó là sự kết hợp giữa dân chủ thực chất – thể hiện qua các thiết chế tham vấn, phản hồi và giám sát thường xuyên – với nền pháp quyền thực thi hiệu lực, trong đó tòa án, công tố và hệ thống thi hành án đủ mạnh để bảo đảm công bằng [9, tr.55]. Bên cạnh đó, quản trị dựa trên dữ liệu và công nghệ số cần được coi là công cụ mới để nâng cao minh bạch, giảm chi phí giao dịch xã hội, đồng thời tạo nền cho kiểm toán và thanh tra theo thời gian thực [11, tr.14]. Khung vận hành này vừa phù hợp với định hướng trong Văn kiện Đại hội XIII và các kết luận Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, vừa đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn phát triển mới.

4. Kết luận

Nhìn từ phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc, có thể rút ra một số giá trị tham chiếu quan trọng cho Việt Nam trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và công tác chỉnh đốn Đảng ở giai đoạn phát triển mới. Vấn đề không phải ở việc sao chép mô hình, mà là khả năng chọn lọc, tiếp thu và sáng tạo, phù hợp với đặc thù chính trị – xã hội của Việt Nam. Có thể khái quát một công thức vận hành với bốn trụ cơ bản. Dân chủ thực chất là phương thức phát huy vai trò, sức mạnh và sự tham gia của nhân dân. Pháp quyền hiệu lực là nền tảng bảo đảm sự chuẩn mực và công bằng của toàn bộ hệ thống. Quản trị dựa trên dữ liệu và công nghệ số giúp tăng cường minh bạch, giảm chi phí xã hội và nâng cao hiệu quả quản lý. Cơ chế kiểm soát quyền lực đa tầng là yếu tố quyết định để giữ vững kỷ cương, ngăn ngừa tha hóa và bảo đảm mọi quyền lực đều được đặt trong khuôn khổ thể chế.

Kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy, cầm quyền trong bối cảnh hiện đại là một chỉnh thể vận động, kết hợp giữa dân chủ, khoa học và pháp quyền trên nền tảng "tự cách mạng" của Đảng. Thành tựu đạt được là rõ rệt, nhưng các rủi ro cấu trúc như quan liêu, bất cân xứng phát triển hay tha hóa quyền lực vẫn thường trực. Điều này gợi mở cho Việt Nam bài học quan trọng: phải đặt nhân dân vào trung tâm của mọi quyết sách, chuẩn hóa quy trình chính sách, sử dụng pháp luật và dữ liệu để ràng buộc quyền lực, đồng thời xây dựng một Đảng vừa liêm chính, vừa có năng lực kỹ trị. Khi những điều kiện này hội tụ, năng lực cầm quyền của Đảng sẽ được bảo đảm không chỉ ở mục tiêu đúng, mà còn ở phương thức đúng, phù hợp với yêu cầu phát triển nhanh, bền vững trong giai đoạn mới.

Khung vận hành này hoàn toàn tương thích với định hướng đã được khẳng định trong Văn kiện Đại hội XIII và các nghị quyết, kết luận của Trung ương, đồng thời phù hợp với yêu cầu đổi mới toàn diện, đồng bộ của đất nước. Điều then chốt là phải thể chế hóa các nguyên tắc đó thành cơ chế cụ thể, có công cụ kiểm chứng và trách nhiệm giải trình minh bạch, để củng cố tính chính danh của Đảng và Nhà nước cả về quy trình lẫn hiệu quả. Từ góc nhìn đó, có thể khẳng định: việc tham chiếu kinh nghiệm quốc tế, trong đó có Trung Quốc, chỉ thực sự có giá trị khi đặt trong tổng thể đường lối đổi mới của Đảng, gắn với thực tiễn Việt Nam, và hướng tới mục tiêu cao nhất là xây dựng một xã hội "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Tài liệu tham khảo

[1] C. Mác – Ph. Ăngghen, Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.

[3] V.I. Lênin, Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980.

[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022.

[6] Vũ Trọng Lâm, "Cách mạng Tháng Tám và sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin tại Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, số 983 (2025).

[7] Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng, tiêu cực, Báo cáo thường niên 2023, Hà Nội, 2024.

[8] Wang Huning, "Political System Reform and Rule of Law in China", Beijing Review, 2020, tr.112.

[9] Xi Jinping, The Governance of China, Vol. IV, Foreign Languages Press, Beijing, 2022.

[10] Liu Honglin – Tan Yadan, "On CPC's Ruling Capacity and Self-reform", Journal of CPC Studies, 2020, tr.77–83.

[11] 中国共产党, 中国共产党第十九次全国代表大会报告 [Báo cáo Đại hội XIX), 北京, 2017.

[12] 中国共产党, 中国共产党第二十次全国代表大会文件 [Văn kiện Đại hội XX], 北京, 2022.

[13] 习近平, 全面依法治国 [Quản lý đất nước theo pháp luật toàn diện], 人民出版社, 北京, 2019.

[14] 习近平, 时代中国特色社会主义思想 [Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới], 北京, 2021.

ThS. Hoàng Long

Trường Chính trị Nguyễn Văn Cừ, tỉnh Bắc Ninh