Quan hệ đối tác chiến lược Việt – Nga (2001-2012): Nhìn từ đối thoại và hợp tác chính trị

Thứ hai, 06/01/2025 - 17:23

Quan hệ Việt – Nga ngày nay là sự kế thừa, phát triển quan hệ hữu nghị truyền thống giữa Việt Nam và Liên Xô trước đây. Quan hệ hai này đã có bước thăng trầm, do những đảo lộn chính trị ở Nga và định hướng ưu tiên trong chính sách đối ngoại của mỗi nước. Mặc dù vậy, xuất phát từ lợi ích của cả hai bên, lãnh đạo cấp cao hai nước, trước hết là phía Việt Nam đã thông qua đối thoại, từng bước đưa quan hệ Việt-Nga vượt ra khỏi tình trạng ngưng trệ và ngày càng củng cố, phát triển.

Bước sang thế kỷ XXI, cùng với những thành tựu của công cuộc cải cách ở Nga và đổi mới ở Việt Nam, hai nước nhận thấy sự cần thiết phải nâng cấp quan hệ, từ quan hệ đối tác chiến lược (2001) tới quan hệ đối tác chiến lươc toàn diện (2012). Do vậy, trong công trình này, chúng tôi tập trung làm rõ diễn biến và kết quả của quan hệ chính trị Việt Nam – Liên bang Nga từ năm 2001 đến năm 2012; đồng thời đưa ra một vài nhận xét và khuyến nghị có giá trị tham khảo.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Tháng 12-1991, sau khi Liên Xô tan rã, quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga/quốc gia kế tục Liên Xô được xác lập. Song trong suốt thập niên 90 của thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân, quan hệ Việt – Nga ít được các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Tháng 2 năm 2001, nhân chuyến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam của Tổng thống Liên bang Nga V. Putin, hai nước tuyên bố xác lập quan hệ đối tác chiến lược. Từ đó, quan hệ Việt-Nga lại thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước. Song cho đến nay, trong khi có rất nhiều công trình nghiên cứu về tiềm năng, triển vọng của quan hệ Việt-Nga trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, kỹ thuật… thì với quan hệ về chính trị lại ít được các nhà khoa học quan tâm. Vì lý do đó, chúng tôi chọn vấn đề Quan hệ đối tác chiến lược Việt - Nga (2001 – 2012): nhìn từ đối thoại và hợp tác chính trị làm chủ đề bài viết.

Thực hiện công trình này, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp logich, kết hợp với phương pháp phân tích, khái quát, tổng hợp để phục dựng lại quan hệ chính trị Việt – Nga từ nguồn tài liệu chủ yếu là các bản Tuyên bố chung của lãnh đạo cấp cao hai nước từ năm 2001 đến năm 2012. Từ thực tiễn đó, chúng tôi sẽ đưa ra một số nhận xét và khuyến nghị, góp phần thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển ngang tầm quan hệ đối tác chiến lược toàn diện đã được xác lập.

II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

1. Các giai đoạn của hợp tác chính trị Việt-Nga: diễn biến và kết quả

1.1. Giai đoạn 2001 – 2005: Phát triển quan hệ chính trị ngang tầm quan hệ đối tác chiến lược

Nét đặc trưng cơ bản nhất trong quan hệ chính trị Việt – Nga giai đoạn này là hai bên tăng cường đối thoại cấp cao nhằm tăng cường hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, tạo sự đồng thuận về các vấn đề quốc tế, khu vực và mở rộng cơ chế hợp tác.

Đối thoại và hợp tác chính trị song phương, từ năm 2001, nhiều đoàn cấp cao hai nước đã qua thăm chính thức lẫn nhau. Mở đầu là chuyến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam của Tổng thống Nga V. Putin vào tháng 2 năm 2001. Chuyến thăm kéo dài 4 ngày, từ ngày 28-2 đến ngày 2-3-2001. Đây là lần đầu tiên ở cương vị Tổng thống của V. Putin và cũng là lần đầu tiên Tổng thống Liên bang Nga sang thăm chính thức Việt Nam. Trong chuyến thăm này, hai bên khẳng định quyết tâm nâng quan hệ Việt-Nga lên tầm đối tác chiến lược. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử quan hệ quốc tế của Việt Nam, Việt Nam xác lập quan hệ đối tác chiến lược với một quốc gia cụ thể - Liên bang Nga.

Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược Việt - Nga nêu rõ: "Trong hơn 50 năm kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ hữu nghị và hợp tác Việt – Nga đã góp phần tích cực vào sự phát triển và phồn vinh của hao nước, vì hòa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực và trên thế giới. Việt Nam và Liên bang Nga khẳng định quyết tâm tiếp tục củng cố và phát triển hơn nữa quan hệ hữu nghị truyền thống và sự hợp tác nhiều mặt trong thế kỷ 21 trên cơ sở quan hệ đối tác chiến lược đã được thiết lập giữa hai nước"[1]. Đối với các văn kiện được hai bên ký kết trước đây, như: Hiệp ước về các cơ sở quan hệ hữu nghị giữa nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Liện bang Nga ký ngày 16-6-1994, Tuyên bố chung Việt – Nga ký ngày 25-8-1998 cùng các văn kiện song phương khác, hai bên cho rằng, các văn kiện đó "là cơ sở vững chắc để phát triển mạnh mẽ quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa hai nước trên cơ sở các nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi" [2]. Ngoài tuyên bố chung, hai bên còn ký Nghị định thư liên chính phủ về việc rà soát các cơ chế, điều ước pháp lý và hiệu lực các hiệp ước, các hiệp định song phương và nhiều văn kiện liên quan khác của các cấp, các ngành về hợp tác Việt – Nga.

Tháng 10-2002, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã sang thăm chính thức Liên bang Nga theo lời mời của Tổng thống V. Putin. Đây là chuyến thăm Nga đầu tiên của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam sau khi Liên Xô tan rã. Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh khẳng định chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam là không ngừng củng cố và phát triển hơn nữa quan hệ hữu nghị truyền thống tốt đẹp và hợp tác nhiều mặt với Nga, coi đó là một hướng ưu tiên trong đường lối đối ngoại của Việt Nam. Trong chuyến thăm này, hai bên đã ký Thông cáo chung Việt Nam - Liên bang Nga (10-2002), khẳng định ý nghĩa lịch sử của Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ hữu nghị giữa Cộng hòa XHCN Việt Nam với Liên bang Nga (16-6-1994); Tuyên bố chung Việt Nam – Liên bang Nga (25-8-1998); Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược giữa Cộng hòa XHCN Việt Nam và Liên bang Nga (01-3-2001). Đồng thời hai bên xác định rõ những định hưởng lớn nhằm tăng cường cơ chế đối thoại chính trị ở cấp cao nhất, nhất trí mở rộng, phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt, bình đẳng, cùng có lợi trên cơ sở các các văn kiện đã được ký kết[3]. Tiếp đó, tháng 5-2004, Chủ tịch nước Trần Đức Lương có chuyến thăm chính thức Liên bang Nga. Trong chuyến thăm, Chủ tịch Trần Đức Lương đã có cuộc hội đàm với Tổng thống Nga V. Putin, Thủ tướng chính phủ M.E. Phiradcốp và Chủ tịch Đuma quốc gia B.V. Grưdcốp…qua các cuộc hội đàm này, lãnh đạo cấp cao hai nước lại một lần nữa khẳng định mong muốn và quyết tâm đưa quan hệ hợp tác song phương lên một tầm cao mới.

Qua các chuyến thăm chính thức lẫn nhau, lãnh đạo cấp cao hai nước đã khẳng định quyết tâm xây dựng quan hệ đối tác chiến lược Việt –Nga và cụ thể hóa mối quan hệ này bằng các hiệp định, thỏa thuận liên chính phủ, liên ngành về hợp tác Việt – Nga trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quốc phòng, văn hóa, giáo dục, khoa học – kỹ thuật… nhằm xây dựng cơ sở pháp lý vững chắc cho quan hệ, từng bước đưa quan hệ đối tác chiến lược Việt–Nga đi vào thực chất.

Thực hiện phương châm đa dạng hóa các quan hệ, hai bên ngày càng quan tâm tới hợp tác liên nghị viện, coi đó là một phần quan trọng trong hợp tác song phương. Hợp tác liên nghị viện Việt-Nga nhằm mục tiêu trao đổi kinh nghiệm trong lập pháp, trong thực thi pháp luật, nâng cao vai trò của nhà nước pháp quyền ở hai quốc gia. Tháng 01-2003, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đã có chuyến thăm chính thức Liên bang Nga. Tiếp đó, tháng 9-2004, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn Yểu đã có chuyến thăm Nga. Đáp lại, tháng 11-2004 Đoàn đại biểu Đuma quốc gia Nga do Phó Chủ tịch V. A. Cúptxốp dẫn đầu đã sang thăm Việt Nam và tháng 01-2005, Chủ tịch Hội đồng Liên bang Nga S.M. Mirônốp đã sang thăm chính thức Việt Nam và tham dự khóa họp hằng năm lần thứ XIII của Diễn đàn Nghị viện châu Á – Thái Bình Dương tổ chức tại thành phố Hạ Long…

Theo hướng hợp tác liên nghị viện, các ủy ban của quốc hội hai nước, như: Ủy ban pháp luật, Ủy ban các vấn đề kinh tế - xã hội…cũng tăng cường trao đổi các đoàn để tìm hiểu các hoạt động đối ngoại, hoạt động lập pháp, hoạt động quản lý kinh tế - xã hội của hai nước. Thêm vào đó, tại các bộ, các ngành, các địa phương hai nước cũng thường xuyên trao đổi các phái đoàn để học hỏi kinh nghiệm của nhau ở mọi cấp và trên nhiều lĩnh vực.

Đối thoại và hợp tác chính trị đa phương, hình thức hợp tác này được thực hiện trong các tổ chức quốc tế, các diễn đàn khu vực, khi cả hai đều là thành viên. Trong hợp tác chính trị đa phương, do vị thế và uy tín quốc tế, Việt Nam là cầu nối tin cậy, chắc chắn để Nga hội nhập ngày càng sâu vào các định chế hợp tác quốc tế và khu vực. Ngược lại, thông qua Liên bang Nga, Việt Nam cũng có được vị thế và lợi ích không nhỏ trong quan hệ hợp tác đa phương.

Cơ chế hợp tác đa phương giữa hai nước được tiến hành trên phạm vi toàn cầu nói chung và khu vực châu Á – Thái bình Dương nói riêng. Đó là một cơ chế nhiều cấp độ, tầng, bậc. Có đối thoại đa phương toàn cầu, như Liên hợp quốc, Tổ chức thương mại thế giới; có đối thoại đa phương khu vực, như Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á…Trong cấu trúc của các mối quan hệ đa phương, Việt Nam và Nga, do gần gũi về lập trường, quan điểm về nhiều vấn đề quốc tế quan trọng, nên thường xuyên có sự tham khảo ý kiến của nhau, nhằm phối hợp hành động và ủng hộ lẫn nhau phù hợp luật pháp quốc tế và quan hệ đối tác chiến lược của hai nước. Nhờ đó, hợp tác Việt - Nga được thực hiện khá hiệu quả ở mọi cấp độ trong cơ chế hợp tác và lợi ích của nó đem lại không chỉ cho hai nước, mà còn còn cho sự phát triển chung của toàn cục.

Ở một số diễn đàn quốc tế, hợp tác đa phương Việt – Nga đã đem lại những kết quả tích cực. Tại Liên hợp quốc và các cơ quan của nó, hai bên thường xuyên trao đổi ý kiến, ủng hộ các ứng viên của nhau tham gia vào cơ cấu điều hành của các tổ chức trong khuôn khổ Liên hợp quốc. Nga ủng hộ Việt Nam tham gia Hội đồng kinh tế - xã hội Liên hợp quốc trên cương vị Phó Chủ tịch. Nga hoan nghênh và đánh giá cao lập trường kiên định, nhất quán của Việt Nam khi Việt Nam bỏ phiếu chống Dự thảo Nghị quyết về tình hình nhân quyền của nước cộng hòa Tresnia thuộc Nga tại phiên họp lần thứ 59 Ủy ban nhân quyền Liên hợp quốc ngày 16-4-2003 [4]. Hai bên đã tham gia với tinh thần trách nhiệm để kết thúc đàm phán dưới sự chỉ đạo của Liên hợp quốc Công ước toàn diện về chủ nghĩa khủng bố quốc tế.

Tại một số diễn đàn khu vực, hợp tác Việt – Nga cũng đem lại nhiều thành quả rất đáng ghi nhận. Do đặc điểm lãnh thổ trải dài trên phần phía Bắc của siêu lục địa Á – Âu, Liên bang Nga rất coi trọng cải thiện, phát triển quan hệ với các nước châu Á – Thái Bình Dương, nơi đã và đang hình thành nhiều tầng nấc hợp tác khá sôi động. Việc tăng cường hợp tác Nga – Việt trong các diễn đàn đa phương khu vực có ý nghĩa to lớn, không chỉ góp phần củng cố quan hệ hai nước, mà còn thúc đẩy việc củng cố khối đoàn kết nội bộ của các tổ chức quốc tế, góp phần duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác, cùng phát triển trong khu vực. Việt Nam là thành viên của ASEAN và APEC, do vậy việc gia tăng hợp tác khu vực của Nga sẽ tạo ra cơ hội cho sự phát triển của quan hệ Nga – Việt, cả song phương lẫn đa phương.

Về phía Việt Nam, thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, vượt qua các rào cản về thể chế chính trị, Việt Nam đã đề nghị việc tăng cường đối thoại chính trị với Nga theo tinh thần hợp tác nhằm đạt sự đồng thuận và tin cậy lẫn nhau; Việt Nam ủng hộ Nga tham gia vào các diễn đàn khu vực châu Á – Thái Bình Dương như ASEM, cấp cao Đông Á, cũng như thức đẩy hiệu quả cơ chế đối thoại Nga – ASEAN; chú trọng tăng cường hợp tác nhiều mặt với Nga theo phương châm nâng cao hiệu quả và cùng có lợi.

Trong khuôn khổ Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), sự phối hợp của Việt Nam và Liên bang Nga ngày có ý nghĩa to lớn. Với vai trò là quốc gia điều phối, Việt Nam đã tạo những điều kiện tốt để Nga có nhiều thuận lợi trong xác lập quan hệ với ASEAN, trở thành quốc gia đối thoại trực tiếp và toàn diện của ASEAN. Sự kiện quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý cho mối quan hệ này là năm 2003, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Liên bang Nga và ASEAN tại Phnom Pênh (Cămpuchiha), hai bên đã ký Tuyên bố chung về hợp tác trong sự nghiệp hòa bình, an ninh, thịnh vượng và phát triển ở khu vực. Tiếp đó, tháng 7-2004, hai bên ký Tuyên bố chung Nga – ASEAN về phòng chống tội phạm quốc tế. Kết quả của đối thoại trực tiếp, toàn diện Liên bang Nga – ASEAN đã dẫn đến Hội nghị thượng đỉnh đầu tiên Nga – ASEAN tháng 12-2005 tại Cuala Lămpơ (Malaixia). Tại Hội nghị này, người đứng đầu Nhà nước Liên bang Nga và những người đứng đầu nhà nước các nước thành viên ASEAN đã ký Tuyên bố chung về quan hệ đối tác toàn diện và tiến bộ; ký Chương trình hành động tổng thể quan hệ hợp tác và phát triển giữa Liên bang Nga và ASEAN giai đoạn 2005 – 2015. Các văn kiện này đã đặt cơ sở pháp lý cho quan hệ hợp tác toàn diện Nga – ASEAN từ năm 2005. Đây là một thành công to lớn của Nga trong quá trình hội nhập khu vực Đông Nam Á, trong đó có vai trò của Việt Nam, được nhiều hãng thông tấn, báo chí nước ngoài bình chọn là một trong 10 sự kiện quốc tế nổi bật nhất của năm 2005.

Về phía Liên bang Nga, Nga cũng coi quan hệ Nga – Việt là một bộ phận trong tổng thể chính sách của Nga ở châu Á – Thái Bình Dương, một điểm nhấn quan trọng trong chính sách của Nga ở Đông Nam Á. Đối với những tranh chấp ở biển Đông, Nga giữ lập trường trung lập, kêu gọi đối thoại hòa bình, chủ trương không dính líu vào các tranh chấp; đồng thời luôn quan tâm đến lợi ích chính đáng của Việt Nam, khi Nga hợp tác quân sự với các nước ven biển Đông.

Trong khôn khổ Diễn đàn hợp tác châu Á – Thái Bình Dương, hai nước đã phối hợp với các thành viên khác ký nhiều văn bản hợp tác khu vực và cùng cam cam kết thực hiện. Bên lề các Hội nghị thượng đỉnh APEC, lãnh đạo cấp cao hai nước thường có những cuộc gặp gỡ, tham vấn lẫn nhau. Tại Hội nghị cấp cao APEC tháng 11-2004 ở Chilê, Tổng thống V. Putin và Chủ tịch Trần Đức Lương đã có cuộc hội đàm, trao đổi, phối hợp về những vấn đề quốc tế, khu vực mà hai nước quan tâm; về thúc đẩy hợp tác song phương và đàm phán để sớm ra nhập WTO. Tiếp đó, tháng 10-2005, tại Hội nghị thượng đỉnh APEC ở Busan (Hàn Quốc), Tổng thống Nga V. Putin và Chủ tịch nước Trần Đức Lương lại có cuộc gặp gỡ, trao đổi về những vấn đề then chốt trong quan hệ song phương và quyết tâm đẩy mạnh hợp tác Nga – Việt có hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực.

1.2. Giai đoạn 2006 – 2012: Củng cố sự tin cậy về chính trị, tiến tới xác lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện

Nét nổi bật trong giai đoạn này là, hai bên tích cực trao đổi các phái đoàn cấp cao, tăng cường đối thoại về tất cả các vấn đề trong quan hệ song phương và đa phương mà hai bên cùng quan tâm, tạo sự đồng thuận và tin cậy cao về chính trị, tiến tới xác lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện.

Với đối thoại và hợp tác chính trị song phương, năm 2006, lần đầu tiên trong lịch sử quan hệ hai nước, chỉ trong một năm cả Thủ tướng và Tổng thống Nga cùng sang thăm Việt Nam. Đó là chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Nga M. E. Phradcốp từ ngày 16 – 17-2-2006. Mục đích chuyến thăm nhằm cụ thể hóa các nội dung của quan hệ đối tác chiến lược, triển khai các dự án hợp tác quan trọng và tìm kiếm phương hướng thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại hai nước phát triển hiệu quả. Trong chuyến thăm này, hai bên đã ký một số văn kiện hợp tác quan trọng, như: Nghị định thư vế sửa đổi Hiệp định giữa Chính phủ Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Chính phủ Liên bang Nga về đào tạo công dân Việt Nam tại các trường và các cơ sở đào tạo đại học của Liên bang Nga ký ngày 9-7-2002; Thỏa thuận giữa Bộ Công an nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Cơ quan liên bang kiểm soát ma túy Liên bang Nga về hợp tác đấu tranh chống sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, các chất hướng thần và tiền chất…

Tiếp đó, nhận lời mời của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, , sau khi dự Hội nghị thượng đỉnh các nhà lãnh đạo kinh tế APEC lần thứ 14, Tổng thống Liên bang Nga đã có chuyến thăm chính thức Việt Nam từ ngày 19 – 20-11-2006. Trong chuyến thăm này, Tổng thống Nga V. Putin đã có các cuộc gặp và hội kiến với Chủ tịch Nguyễn Minh Triết, với Tổng Bí thư Nông Ðức Mạnh, với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng. Các cuộc gặp và hội đàm đã diễn ra trên tinh thần thẳng thắn và tin cậy. Lãnh đạo hai nước đã tổng kết việc phát triển quan hệ song phương và đa phương kể từ khi thông qua Tuyên bố về đối tác chiến lược giữa Cộng hòa XHCN Việt Nam và Liên bang Nga ngày 1-3-2001, đồng thời thảo luận nhiều vấn đề mà hai bên cùng quan tâm, trước hết là tăng cường hợp tác về chính trị và kinh tế giữa hai nước. Tuyên bố chung Việt Nam – Liên bang Nga nêu rõ: "hai bên nhất trí đẩy mạnh sự hợp tác toàn diện Việt - Nga trên cơ sở phát huy thế mạnh và khả năng của mỗi nước, chú trọng đặc biệt đến vấn đề phát triển hợp tác trong lĩnh vực kinh tế-thương mại, trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả hợp tác, vì lợi ích của nhân dân mỗi nước. Hai bên đã thỏa thuận sẽ tăng cường vai trò điều phối của Ủy ban liên chính phủ Việt - Nga về hợp tác kinh tế - thương mại và khoa học - kỹ thuật nhằm thực hiện những thỏa thuận đã đạt được và tìm phương thức giải quyết hiệu quả nhất cho những vấn đề còn tồn tại"[5].

Thực hiện định hướng trên, hai bên đã ký kết một số văn kiện về hợp tác kinh tế, như: Thỏa thuận về hợp tác chiến lược giữa Công ty cổ phần mỏ Gazprôm và Tổng công ty dầu khí Việt Nam; Thỏa thuận hợp tác về giám sát hoạt động ngân hàng giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Trung ương Nga; Thỏa thuận khung về hợp tác giữa Ngân hàng tiết kiệm Nga và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam; Chương trình hành động chung giai đoạn 2007 – 2008 về việc triển khai Hiệp định hợp tác du lịch giữa hai chính phủ Việt Nam và Liên bang Nga; và Tuyên bố chung của Chủ tịch nước Việt Nam và Tổng thống Nga về việc tiếp tục hợp tác trong lĩnh vực thăm dò địa chất và khai thác dầu khí.

Với lĩnh vực đối ngoại, hai bên cam kết "tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa CHXHCN Việt Nam và LB Nga trong lĩnh vực đối ngoại trên cơ sở quan điểm trùng hợp hoặc gần gũi trong phần lớn các vấn đề quốc tế vì lợi ích củng cố hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương"[6]; đông thời nhất trí tăng cường hợp tác trong lĩnh vực nhân văn, văn hóa, lĩnh vực quốc phòng, an ninh và lĩnh vực chống khủng bố…

Tháng 11-2010, Tổng thống Nga V. Medvedev đã sang thăm chính thức Việt Nam và dự Hội nghị cấp cao Nga – ASEAN lần 2 tại Hà Nội. Tiếp đó, tháng 3-2011, nhân kỹ niệm 10 năm xác lập quan hệ đối tác chiến lược, Phó Thủ tướng Liên bang Nga Suvalốp đã sang thăm Việt Nam dự cuộc họp đầu tiên của của hai đồng Chủ tịch Ủy ban liên chính phủ Việt – Nga về hợp tác kinh tế-thương mại và khoa học-kỹ thuật sau khi được nâng cấp. Nhân dịp này, hai bên đã ký Hiệp định về việc Nga cung cấp tín dụng với điều kiện ưu đãi cho Việt Nam triển khai xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên, cũng như mua trang thiết bị kỹ thuật quân sự của Nga và xây dựng trung tâm khoa học và công nghệ hạt nhân tại Việt Nam. Tháng11-2012 Thủ tướng Nga D. Medvedev đã sang thăm chính thức Việt Nam, tiếp tục khẳng định quyết tâm của Lãnh đạo Liên bang Nga trong việc tăng cường và củng cố quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện với Việt Nam.

Về phía Việt Nam, để thúc đẩy quan hệ hai nước, tháng 10-2008, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã sang thăm chính thức Liên bang Nga. Hai bên đã ra Tuyên bố chung Việt – Nga, khẳng định quyết tâm tăng cường hợp tác nhiều mặt, đưa quan hệ đối tác chiến lược Việt – Nga ngày càng hiệu quả. Trong chuyến thăm này, hai bên đã ký kết nhiều văn kiện, như: Hiệp định hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Liên bang Nga về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; Hiệp định hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Liên bang Nga về chống di cư bất hợp pháp; Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Liên bang Nga về việc nhận trở lại công dân và Nghị định thư thực hiện Hiệp định; Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Liên bang Nga về vấn đề làm việc có thời hạn của công dân Việt Nam tại Liên bang Nga và công dân Liên bang Nga tại Việt Nam[7]...

Tại Mátxcova, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Tổng thống D. Medvedev đã chứng kiến lễ ký kết các thỏa thuận, kế hoạch và biên bản ghi nhớ hợp tác khác, như: Thỏa thuận giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Liên bang Nga về tiếp tục hợp tác trong lĩnh vực thăm dò địa chất và khai thác dầu khí trên cơ sở Xí nghiệp liên doanh Vietsovpetro; Kế hoạch hành động trung hạn Việt Nam - Liên bang Nga trong lĩnh vực thương mại và đầu tư đến năm 2012; Thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực thông tin giữa Thông tấn xã Việt Nam và Hãng thông tấn ITAR-TASS; Biên bản ghi nhớ giữa Tập đoàn Nhôm của Liên bang Nga và Công ty An Viên về việc hợp tác đầu tư thực hiện Dự án xây dựng tổ hợp khai thác, chế biến bô-xít - alumin tại Việt Nam. Đồng thời, hai bên đã ký một số thỏa thuận hợp tác về dầu khí[8]….

Tiếp đó, từ năm 2009 đến năm 2012, nhiều phái đoàn cấp cao Việt Nam đã sang thăm chính thức Liên bang Nga. Trong đó có phái đoàn của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng tháng 4-2009, của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tháng 12-2009, của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tháng 11-2010… Đáng chú ý nhất là chuyến thăm chính thức Liên bang Nga của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tháng 7-2012. Trong chuyến thăm này, hai bên đã ký Tuyên bố chung về tăng cường quan hệ Việt - Nga, nâng quan hệ hai nước từ quan hệ đối tác chiến lược lên quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Tuyên bố chung khẳng định: "kể từ khi hai nước ký Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược năm 2001, quan hệ hợp tác giữa hai nước trên tất cả các lĩnh vực không ngừng được củng cố và tăng cường, kế thừa xứng đáng truyền thống hữu nghị và tương trợ giữa hai dân tộc. Hai bên nhất trí tiếp tục phát triển hơn nữa quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga trên tinh thần đối tác chiến lược toàn diện"[9].

Cùng với Tuyên bố chung về tăng cường quan hệ Việt – Nga. hai bên đã ký nhiều văn kiện hợp tác khác, như: Bản ghi nhớ giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Cộng hòa XHCN Việt Nam và Bộ Nông nghiệp Liên bang Nga về tăng cường hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp; Bản ghi nhớ về trao đổi các số liệu thống kê thương mại hàng hóa xuất khẩu nhập khẩu song phương giữa Tổng cục Hải quan Cộng hòa XHCN Việt Nam và Cơ quan Hải quan Liên bang Nga; Kế hoạch hành động chung trong đấu tranh với các vi phạm hải quan giữa Tổng cục Hải quan Cộng hòa XHCN Việt Nam và Cơ quan Hải quan Liên bang Nga giai đoạn 2012-2013; Nghị định thư phê chuẩn Hiệp định giữa Cộng hòa XHCN Việt Nam và Liên bang Nga về tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự và Nghị định thư bổ sung Hiệp định giữa Cộng hòa XHCN Việt Nam và Liên bang Nga về tương trợ tư pháp và pháp lý các mối quan hệ pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự ngày 25-8-1998; Chương trình hợp tác giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Cộng hòa XHCN Việt Nam và Bộ Văn hóa Liên bang Nga giai đoạn 2013-2015 trong lĩnh vực văn hóa; Thỏa thuận về hợp tác khoa học giữa Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam và Viện Hàn lâm Khoa học Nga[10]…Các văn kiện này là cơ sở pháp lý để hai bên triển khai quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Liên bang Nga trong bối cảnh quốc tế mới.

Đối thoại và hợp tác chính trị đa phương Việt-Nga giai đoạn này tiếp tục phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu, đem lại nhiều kết quả thiết thực. Truyên bố chung Việt Nam - Liên bang Nga (2006) khẳng định: "Hai bên hài lòng ghi nhận việc tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa Việt Nam và LB Nga trong lĩnh vực đối ngoại trên cơ sở quan điểm trùng hợp hoặc gần gũi trong phần lớn các vấn đề quốc tế vì lợi ích củng cố hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương"[11].

Lãnh đạo hai nước khẳng định vai trò không thể thay thế được của Liên hợp quốc trong việc bảo đảm hòa bình và ổn định trên toàn thế giới, sự cần thiết phải tăng cường uy tín và hiệu quả của tổ chức này trong các vấn đề quốc tế. Hai bên bày tỏ quyết tâm cùng hợp tác trong lĩnh vực an ninh và đấu tranh chống chủ nghĩa khủng bố thông qua đối thoại song phương và phối hợp hành động chặt chẽ trong khuôn khổ các diễn đàn quốc tế cũng như các tổ chức khu vực khác. Hai bên ủng hộ những nỗ lực chung, có định hướng rõ ràng của cộng đồng quốc tế trong việc xây dựng một trật tự thế giới dân chủ và công bằng, dựa trên cách tiếp cận đa phương, tính tối thượng của luật pháp quốc tế, tôn trọng chủ quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các quốc gia, thiết lập cơ chế đối thoại giữa các nền văn minh, củng cố trật tự và an ninh thế giới, giữ gìn sự ổn định khu vực và trên quy mô toàn cầu.

Việt Nam và Liên bang Nga kiên quyết phản đối mưu toan của một số giới nhất định nhằm xét lại lịch sử Chiến tranh thế giới thứ hai, nghi ngờ vai trò quyết định của nhân dân Liên Xô trong Chiến thắng phát-xít, mở đường giải phóng nhiều dân tộc trên thế giới khỏi ách thực dân[12].

Hai bên nhấn mạnh vai trò trụ cột của ASEAN trong hệ thống các cơ chế liên kết đa phương khu vực và ý nghĩa quan trọng của Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) đối với việc thúc đẩy quá trình liên kết trong khu vực. Hai bên cho rằng, các tranh chấp lãnh thổ và các tranh chấp khác tại không gian châu Á-Thái Bình Dương cần được giải quyết chỉ bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, trên cơ sở luật pháp quốc tế hiện hành, nhất là Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Hai bên ủng hộ việc thực thi đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông năm 2002 và tiến tới sớm xây dựng Bộ quy tắc về ứng xử tại Biển Đông. Hai bên khẳng định quyết tâm tăng cường phối hợp nhằm đối phó với các thách thức, nguy cơ mới đe dọa an ninh và phát triển bền vững ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, trước hết trong khuôn khổ Diễn đàn khu vực ASEAN và Hội nghị các Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN với các đối tác đối thoại.

Liên bang Nga hoan nghênh và đánh giá cao việc Việt Nam phê chuẩn Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân toàn diện và cho rằng việc phổ biến vũ khí giết người hàng loạt, khủng bố quốc tế, buôn lậu ma túy, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và buôn bán người là những mối đe dọa nghiêm trọng đối với an ninh và ổn định, đồng thời chia sẻ quan điểm với Việt Nam về việc cần thiết phải tăng cường hợp tác song phương và đa phương để cùng nhau đấu tranh chống lại những hiểm họa đó.

Nga đánh giá cao hiệu quả vai trò Chủ tịch của Việt Nam tại Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có việc tổ chức thành công Hội nghị APEC lần thứ 14 tại Hà Nội với chủ đề: "Hướng tới một cộng đồng năng động vì sự phát triển bền vững và thịnh vượng"; Nga tích cực ủng hộ các điều mục của Chương trình Hà Nội và cho rằng chủ đề Hội nghị APEC 2006 mà Việt Nam đưa ra đã "hoàn toàn đáp ứng các ưu tiên chính trị và kinh tế đối ngoại của Nga"[13]. Ngoại trưởng Nga S.Lavrốp khắng định "Chúng tôi dự định tăng cường hơn nữa sự tham gia của mình trong hoạt động của APEC, đồng thời chúng tôi kiên quyết bảo vệ lợi ích dân tộc của nước Nga, những lợi ích không cản trở lợi ích của các đối tác"[14]. đánh giá cao vai trò tích cực của Việt Nam trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và các cơ chế hợp tác khu vực và quốc tế khác, trong đó có sự tham gia của Việt Nam vào các hoạt động của "Nhóm 20" (G20) với tư cách là Chủ tịch đương nhiệm của ASEAN. Đồng thời, hai bên khẳng định sẵn sàng phối hợp chặt chẽ trong khuôn khổ G20 về tất cả các vấn đề hai bên cùng quan tâm.

Việt Nam đánh giá cao vai trò Chủ tịch của Liên bang Nga trong "nhóm G-8" và kết quả của cuộc gặp Thượng đỉnh G-8 tại Saint Petersbur. Việt Nam ủng hộ nguyện vọng của Nga tham gia vào hoạt động của Diễn đàn hợp tác Á -Âu (ASEM) và sẽ thúc đẩy việc Liên bang Nga gia nhập tổ chức ASEM; Việt Nam ủng hộ chiến lược đối ngoại của Chính phủ Nga về việc tăng cường vị thế của Nga tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương và hoan nghênh những nỗ lực của Nga trong quá trình hội nhập tại khu vực này. Việt nam khẳng định ủng hộ đề nghị chính thức của Nga đưa ra năm 2005 về việc gia nhập Cấp cao Đông Á với tư cách là quốc gia đáp ứng được đầy đủ những tiêu chí tham gia do ASEAN đề ra, bao gồm việc có quan hệ thực chất với Hiệp hội. Việt Nam cam kết sẽ quan tâm thúc đẩy quan hệ đối thoại và hợp tác giữa ASEAN và Liên bang Nga. Với vai trò là Chủ tịch ASEAN năm 2010, Việt Nam đã đăng cai và đồng chủ trì Hội nghi cấp cao ASEAN – Nga lần thứ hai, dẫn đến cam kết giữa ASEAN và Nga về tăng cường hơn nữa quan hệ đối tác toàn diện và tiến bộ, nâng quan hệ ASEAN – Nga lên một cấp độ mới về chất. Cam kết ASEAN – Nga đã phản ánh đúng vai trò ngày càng tăng của Nga và ASEAN trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Sau hội nghị, các nước trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á đã đạt được sự đồng thuận là ủng hộ Nga tham gia vào các diễn đàn khu vực liên quan do ASEAN đóng vai trò chủ đạo, trong đó có Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS). Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+). Và tháng 10/2010, Nga đã tham gia Hội nghị cấp cao Đông Á lần thức 5 tại Việt Nam với cương vị là khách mời và tham gia chính thức kể từ năm 2011.

2. Nhận xét và khuyến nghị

2.1. Một vài nhận xét

Một, đã xây dựng được cơ chế đối thoại và hợp tác chính trị cả song phương lẫn đa phương ngày càng bền chặt, đưa quan hệ hai nước từ quan hệ đối tác chiến lược lên quan hệ đối tác chiến lược toàn diện.

Về cơ chế hợp tác song phương, đó là việc trao đổi, tham vấn thường xuyên giữa các đoàn đại biểu cấp cao hai nước được bổ sung bởi cơ chế Ủy ban liên Chính phủ về hợp tác kinh tế - thương mại và khoa học - kỹ thuật, thành lập từ năm 1992, được nâng lên cấp Phó Thủ tướng từ năm 2011 với các phiên họp thường niên, nhằm đánh giá kết quả hợp tác và xác định các chương trình, kế hoạch hợp tác tiếp theo, cũng như việc trao đổi các đoàn tương ứng giữa các cơ quan hai nước…

Về cơ chế hợp tác đa phương, đã hình thành một cơ chế nhiều tầng, bậc, cấp độ tương ứng với các tổ chức, các diễn đàn khu vực và quốc tế mà Việt Nam và Liên bang Nga đều là thành viên. Trong cấu trúc của mối quan hệ đa phương này, hợp tác chiến lược Việt – Nga có thể thực hiện hiệu quả ở mọi tầng nấc của mối quan hệ, nhờ sự gần gũi về quan điểm giữa Nga và Việt Nam trên các vấn đề then chốt của quốc tế và khu vực[15]. Hai nước thường xuyên tham khảo ý kiến của nhau để phối hợp hành động và ủng hộ lẫn nhau, phù hợp với luật pháp quốc tế và quan hệ đối tác chiến lược. Nhờ đó, hợp tác Việt - Nga được thực hiện khá thành công, hiệu quả ở mọi cấp độ trong cơ chế hợp tác đa phương và lợi ích của nó đem lại không chỉ cho hai nước, mà còn cho sự phát triển chung của toàn cục.

Những thành tựu của đối thoại và hợp tác chính trị Việt-Nga đã góp phần quyết định vào việc củng cố, tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa lãnh đạo cấp cao hai nước, đưa quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga từ quan hệ đối tác chiến lược (2001) lên quan hệ đối tác chiến lược toàn diện (2012).

Hai, trong quá trình đối thoại, lãnh đạo cấp cao hai nước đã tạo dựng được khá đầy đủ cơ sở các điều ước pháp lý mới cho quan hệ hợp tác song phương. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, từ năm 1991 đến năm 2010, hai bên đã ký kết hơn 60 văn kiện hợp tác[16] trên nhiều lĩnh vực, như: kinh tế - thương mại, đầu tư, dầu khí, điện hạt nhân, giáo dục - đào tạo, văn hóa - khoa học, an ninh quốc phòng... Đây là cơ sở pháp lý rất quan trọng để đưa quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững.

Ba, quan hệ Việt-Nga thời kỳ này thể hiện rõ tính vượt trước của quan hệ về chính trị so với các quan hệ khác. Tháng 3-2001, hai nước xác lập quan hệ đối tác chiến lược, song mãi 6 năm sau, tháng 2-2006, nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Liên bang Nga M. E. Phradcốp, hai bên mới cụ thể hóa các nội dung của quan hệ đối tác chiến lược, triển khai các dự án quan trọng và tìm kiếm phương hướng thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại Việt-Nga. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, kém hiệu quả trong quan hệ hai nước, nhất là quan hệ kinh tế. Điều này có thể thấy qua kim ngạch thương mại hai chiều Việt-Nga, thước đo quan trọng nhất trong quan hệ kinh tế của mọi quốc gia, tăng trưởng còn thấp và thất thường. Năm 2000, kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam – Liên bang Nga đạt 400 triệu USD; từ năm 2001 đến năm 2004, mặc dù tổng kim ngạch hai chiều liên tục tăng, song ở mức rất thấp, chỉ đạt 750 triệu USD; năm 2005 lần đầu tiên tổng kim ngạch Việt – Nga vượt mức trên 1 tỷ USD, đạt 1,019 tỷ USD[17]. Nhưng năm 2006 tổng kim ngạch hai chiều lại giảm, chỉ đạt 849 triệu USD và 4 năm sau, năm 2010 cũng chỉ đạt 1,83 tỷ USD[18].

2.2. Một vài khuyến nghị

Thứ nhất, quyết tâm chung của lãnh đạo cấp cao hai nước về xây dựng, phát triển quan hệ Việt-Nga cần được cụ thể hóa kịp thời bằng các điều ước pháp lý theo thông lệ quốc tế và phù hợp với quan hệ đối tác chiến lược. Đó là các hiệp định, hiệp ước, các nghị định thư, các bản ghi nhớ, các chương trình, kế hoạch hợp tác…giữa các cơ quan hữu quan của hai nước. Giai đoạn 2001-2012, do nhiều nguyên nhân, vấn đề này chưa được hai bên quan tâm đúng mức, dẫn đến sự trì trệ, tính kém hiệu quả trong quan hệ hợp tác trong lĩnh vực kinh tế như đã minh chứng ở trên. Chính điều này đã cho chúng ta thấy, mặc dù hai nước sớm xác lập quan hệ đối tác chiến lược, song trong giai đoạn đầu, cả hai bên đều chưa thực sự coi nhau là đối tượng ưu tiên trong chiến lược đối ngoại của mình.

Thứ hai, cần phát huy những điểm tương đồng, tôn trọng sự khác biệt để đi đến một chiến lược phát triển lâu dài. Việt Nam và Liên bang Nga có quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời, có những điểm tương đồng về lịch sử hào hùng trong đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ các quyền cơ bản của dân tộc. Hiện nay, hai bên lại có sự gần gũi hoặc tương đồng quan điểm về những vấn đề then chốt của khu vực và quốc tế. Mặc dù có sự khác biệt về thể chế chính trị, song hai bên cần phải phát huy những điểm tương đồng, lấy những điểm tương đồng làm cơ sở để đi đến một chiến lược phát triển lâu dài, với cơ chế hợp tác hoàn chỉnh và các giải pháp thực hiện hữu hiệu để đưa quan hệ hai nước đi vào chiều sâu, ổn định, hiệu quả xứng tầm quan hệ đối tác chiến lược toàn diện.

Từ năm 2022, trước xung đột Nga-Ukrraina ngày càng ác liệt, Việt Nam trước sau như một, kiên định lập trường ủng hộ giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế và Hiến chương của Liên hợp quốc, có tính đến lợi ích chính đáng của tất cả các bên liên quan, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Đồng thời sẵn sàng tham gia các nỗ lực trung gian hòa giải quốc tế nhằm tìm kiếm giải pháp hòa bình, bền vững cho xung đột Nga-Ukraine. Lập trường đúng đắn, tích cực của Việt Nam đã được giới lãnh đạo liên bang Nga đánh giá cao. Tháng 6 năm 2024, trong chuyến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam sau khi tái đắc cử Tổng thống, Tổng thống Liên bang Nga V. Putin đã khẳng định: "Nga đánh giá cao lập trường cân bằng, khách quan của Việt Nam về vấn đề Ukraine, theo đó cần giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế và các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc, có tính đến lợi ích chính đáng của các bên liên quan, vì hòa bình, ổn định và phát triển tại khu vực và trên thế giới; hoan nghênh Việt Nam sẵn sàng tham gia các nỗ lực quốc tế có sự tham gia của các bên liên quan nhằm tìm kiếm giải pháp hòa bình, bền vững cho vấn đề Ukraine"[19].

Thứ ba, phối hợp tìm kiếm, tháo gỡ những khó khăn, rào cản trong quan hệ hợp tác, nhất là hợp tác về kinh tế giữa hai nước. Cũng như trước đây, quan hệ kinh tế Việt-Nga thời kỳ này có nhiều rào cản, đó là: 1) hai nước đều nằm trong tình trạng chuyển đổi nền kinh tế, từ kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường của Nga và kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam; 2) khó khăn trong thanh toán, phải chuyển đổi giá trị hàng hóa xuất, nhập khẩu qua đồng tiền của bên thứ ba; 3) sự cách trở về địa lý, Nga quá xa Việt Nam, hàng hóa từ Nga sang Việt Nam và ngược lại, từ Việt Nam sang Nga phải chịu phí vận tải lớn, làm giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường nước bạn…Tất cả những rào cản này, hai nước phải phối hợp tháo gỡ mới có thể đưa quan hệ Việt-Nga phát triển.

III. KẾT LUẬN

Quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga giai đoạn 2001 - 2012 đạt được nhiều thành tựu, trong đó thành tựu quan trọng, nổi bật nhất là quan hệ về chính trị. Trong quá trình đó, do kế thừa truyền thống quan hệ hữu nghị tốt đẹp, luôn tôn trọng sự khác biệt và phát huy những điểm tương đồng, lãnh đạo cấp cao hai nước đã từng bước tạo được sự tin cậy cao về chính trị, góp phần quyết định vào việc đưa quan hệ Việt - Nga từ chỗ chỉ là đối tác chiến lược lên đối tác chiến lược toàn diện, đáp ứng nhu cầu lợi ích của hai nước, phù hợp với xu thế hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của thời đại ngày nay. Mặc dù trong quá trình đối thoại và hợp tác cũng còn có mặt hạn chế, bất cập, song do nhu cầu phát triển của mỗi nước trong bối cảnh quốc tế mới có nhiều biến động, lãnh đạo hai nước đã phối hơp để tháo gỡ, đưa quan hệ Việt-Nga ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững.

Đánh giá quan hệ Việt-Nga, Tổng thống V. Putin nói, "Quan hệ giữa Nga và Việt Nam có tính chất đặc biệt, thậm chí còn hơn cả chiến lược. Chúng ta có điểm chung, theo nghĩa đầy đủ của từ đó, là quá khứ anh hùng cùng nhau hợp tác đấu tranh, trong đó có cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam, rất nhiều công việc chung vì sự hồi sinh sau chiến tranh và triển vọng vô cùng tốt đẹp cho tương lai"[20]. Trong chuyến thăm Nga tháng 11-2014, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nhấn mạnh: Việt Nam luôn coi trọng và mong muốn củng cố, thúc đẩy hơn nữa quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Liên bang Nga, coi Nga là một trong những đối tác quan trọng, tin cậy hàng đầu của Việt Nam.


https://nvsk.vnanet.vn/tuyen-bo-chung-ve-quan-he-doi-tac-chien-luoc-giua-chxhcn-viet-nam-va-lien-bang-nga-3-2001-1-126154.vnaTÀI LIỆU TRÍCH DẪN

[1] Thông tấn xã Việt Nam. 2001. "Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược giữa nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Liên bang Nga". <[2]>. Truy cập tháng 5 năm 2023.

[3] Thông tấn xã Việt Nam. 2001. "Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược giữa nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Liên bang Nga". Như trên.

[4] Báo Nhân dân. 2002. "Thông cáo chung Việt Nam - Liên bang Nga". Ngày 14/10/2002, tr 1, 2

[5] Phí Như Chanh cb (2004), Thế giới, khu vực và một số nước lớn bước vào năm 2004. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 190.

https://nhandan.vn/tuyen-bo-chung-viet-nam-lb-nga-post590677.html Báo Nhân dân điện tử. 2006. "Tuyên bố chung Việt Nam – Liên bang Nga". <[6]>. Truy cập tháng 8 năm 2024.

https://nhandan.vn/tuyen-bo-chung-viet-nam-lb-nga-post590677.html Báo Nhân dân điện tử. 2006. "Tuyên bố chung Việt Nam – Liên bang Nga". <[7]>. Truy cập tháng 8 năm 2024.

https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc/tuyen-bo-chung-viet-nam-lien-bang-nga-276294 Báo Quân đội nhân dân điện tử. 2008. "Tuyên bố chung Việt Nam – Liên bang Nga". <[8]>. Truy cập tháng 6 năm 2024.

https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc/tuyen-bo-chung-viet-nam-lien-bang-nga-276294 Báo Quân đội nhân dân điện tử. 2008. "Tuyên bố chung Việt Nam – Liên bang Nga". <[9]>. Truy cập tháng 6 năm 2024.

https://dangcongsan.vn/tieu-diem/tuyen-bo-chung-ve-tang-cuong-quan-he-vietnga-139054.html Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2012. "Tuyên bố chung về tăng cường quan hệ Việt-Nga". <[10]>. Truy cập tháng 7 năm 2024.

https://dangcongsan.vn/tieu-diem/tuyen-bo-chung-ve-tang-cuong-quan-he-vietnga-139054.html Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2012. "Tuyên bố chung về tăng cường quan hệ Việt-Nga". <[11]>. Như trên.

https://nhandan.vn/tuyen-bo-chung-viet-nam-lb-nga-post590677.html Báo Nhân dân điện tử. 2006. "Tuyên bố chung Việt Nam – Liên bang Nga". <[12]>. Truy cập tháng 8 năm 2024.

https://quochoi.vn/pages/tim-kiem.aspx?ItemID=7483 Cổng thông tin điện tử Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. 2010. "Tuyên bố chung Việt Nam – Liên bang Nga". Ngày 14-7-2010. (https://dangcongsan.vn/tieu-diem/tuyen-bo-chung-ve-tang-cuong-quan-he-vietnga-139054.html). Truy cập tháng 6 năm 2024; Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2012. "Tuyên bố chung về tăng cường quan hệ Việt-Nga". Ngày 28-7-2012. ([13]). Truy cập tháng 7 năm 2024

[14] Báo Quân đội nhân dân, số ra ngày 13/11/2006

[15] Báo Quân đội nhân dân, số ra ngày 13/11/2006

[16] A. Poliacov và V. Klimov (2001), Nga - Việt Nam: Từ lợi ích chiến lược đến quan hệ đối tác chiến lược. Tạp chí Viễn Đông (tiếng Nga), số 3, tr. 147.

Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2010), "Đưa quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga vào chiều sâu". https://quochoi.vn/pages/tim-kiem.aspx?ItemID=7687; truy cập ngày 14/7/2024. Truy cập tháng 5 năm 2024.

Vũ Dương Huân. "Quan hệ đối tác chiến lược Việt – Nga: Thành tựu, vẫn đề và tiển vọng". <https://vnu.edu.vn/home/?C1635/N5232/Quan-he-doi-tac-chien-luoc-Viet---Nga:-Thanh-tuu,-van-de-va-trien-vong.htm>. Truy cập tháng 9 năm 2024.

[18] Lê Văn Thịnh – Chủ trì (2013): Quan hệ kinh tế Việt Nam - Liên bang Nga (1991 - 2010). Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài cấp ĐHQG Hà Nội. Mã số: QG.11.39. Nghiệm thu năm 2013, tr. 88.

[19] Báo Nhân dân điện tử (2024), "Tuyên bố chung giữa Cộng hòa XHCN Việt Nam và LB Nga về làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện trên cơ sở thành tựu 30 năm thực hiện Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị Việt Nam-Nga". Ngày 20-6-2024; <https://nhandan.vn/tuyen-bo-chung-giua-cong-hoa-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-va-lien-bang-nga-ve-lam-sau-sac-hon-quan-he-doi-tac-chien-luoc-toan-dien-post815384.html>; truy cập ngày 27/6/2024.

[20] Ngô Đức Mạnh (2022), Chặng đường vẻ vang quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia. Tr. 392.

ThS. Lê Văn Quân

Khoa Khoa học Chính trị, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG Hà Nội

Bài viết là Kết quả nghiên cứu đề tài mã số CS.2024.05, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG Hà Nội