Do vậy, việc tích hợp nội dung BVNTTT của Đảng và đấu tranh phản bác quan điểm sai trái thù địch ĐTPB – QĐSTTĐ vào môn "ĐLCS-Đ-NNVN" là một yêu cầu cấp thiết. Điều này không chỉ góp phần đảm bảo sự vững mạnh của Đảng, đối phó hiệu quả với các thách thức hiện nay mà còn nâng cao năng lực lý luận và thực tiễn cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, từ đó phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp cách mạng của đất nước.
Từ khoá: Bảo vệ nền tảng tư tưởng, giảng dạy môn đường lối, phản bác quan điểm sai trái, thù địch.
I. Cơ sở lý luận và thực tiễn về BVNTTT của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
Nền tảng tư tưởng của ĐCS Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là hệ thống lý luận khoa học và cách mạng, đóng vai trò kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng và sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác - Lênin: Là học thuyết cung cấp cơ sở lý luận về quy luật phát triển của xã hội, nhấn mạnh vai trò của đấu tranh giai cấp và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong việc xây dựng xã hội XHCN.
Tư tưởng Hồ Chí Minh: Là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn Việt Nam, bao gồm các quan điểm về giải phóng dân tộc, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân, cùng với các giá trị đạo đức cách mạng.
Nền tảng tư tưởng này không chỉ là cơ sở lý luận mà còn là định hướng chiến lược cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân Việt Nam. Việc BVNTTT của ĐCS Việt Nam mang ý nghĩa sống còn, thể hiện qua các khía cạnh sau:
Đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước và xã hội: Nền tảng tư tưởng là cơ sở để Đảng hoạch định đường lối, chính sách đúng đắn, từ đó lãnh đạo đất nước phát triển theo con đường XHCN. Việc bảo vệ nền tảng này giúp duy trì vai trò lãnh đạo của Đảng, ngăn chặn sự lệch lạc về tư tưởng chính trị.
Ngăn chặn sự xâm nhập của các tư tưởng phản động, thù địch: Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và sự phát triển của công nghệ thông tin, các thế lực thù địch thường xuyên tuyên truyền, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. BVNTTT giúp đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, bảo vệ sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng và nhân dân.
Giữ vững định hướng XHCN trong quá trình phát triển đất nước: Nền tảng tư tưởng là kim chỉ nam để Đảng và Nhà nước đề ra các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo sự phát triển bền vững và công bằng. Việc bảo vệ nền tảng này giúp đất nước không bị lệch hướng trong quá trình hội nhập và phát triển.
Nâng cao nhận thức và bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân: Thông qua việc bảo vệ và tuyên truyền nền tảng tư tưởng, cán bộ, đảng viên và nhân dân được trang bị kiến thức lý luận vững vàng, nâng cao bản lĩnh chính trị, khả năng nhận diện và đấu tranh chống lại các luận điệu sai trái, thù địch.
BVNTTT của Đảng cộng sản Việt Nam là nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng của toàn Đảng, toàn dân. Đây không chỉ là việc bảo vệ hệ thống lý luận mà còn là bảo vệ sự nghiệp cách mạng, bảo vệ con đường phát triển của đất nước. Trong bối cảnh hiện nay, nhiệm vụ này càng trở nên cấp thiết để đảm bảo sự ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia.
Đặc điểm và các hình thức biểu hiện của các quan điểm sai trái, thù địch
Các quan điểm sai trái thù địch là những tư tưởng, lập luận, tuyên bố hoặc hành động nhằm phủ nhận, xuyên tạc, chống đối hoặc làm suy yếu nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam. Nền tảng tư tưởng này bao gồm chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Những quan điểm này thường bị các thế lực phản động, tổ chức hoặc cá nhân có ý đồ chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN tại Việt Nam sử dụng như một công cụ để đạt được mục đích chính trị của họ.
Các quan điểm sai trái thù địch thường có đặc điểm: Tính hệ thống và có tổ chức: Chúng được xây dựng một cách bài bản, có chiến lược dài hạn, nhắm vào việc tấn công các giá trị cốt lõi của nền tảng tư tưởng của Đảng.
Tính đa dạng và tinh vi: Các luận điệu thù địch xuất hiện trên nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh; đồng thời được ngụy trang dưới các chiêu bài như "dân chủ", "nhân quyền", "tự do ngôn luận" để dễ dàng tiếp cận và tác động đến người dân.
Tính công kích mạnh mẽ: Chúng trực tiếp tấn công vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận thành tựu cách mạng, xuyên tạc lịch sử và bôi nhọ hình ảnh lãnh tụ.
Tính lan truyền nhanh chóng: Với sự phát triển của công nghệ thông tin và mạng xã hội, các quan điểm này có khả năng lan tỏa rộng rãi, đặc biệt ảnh hưởng đến giới trẻ và những người dễ bị tác động bởi thông tin chưa được kiểm chứng.
Biểu hiện của các quan điểm sai trái thù địch bằng nhiều hình thức đa dạng và phức tạp, cụ thể như sau: Phủ nhận giá trị của chủ nghĩa Mác – Lênin; xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh; tấn công vào vai trò lãnh đạo của Đảng; Phủ nhận thành tựu của công cuộc đổi mới; kích động chia rẽ dân tộc và tôn giáo; tuyên truyền về "dân chủ", "nhân quyền" kiểu phương Tây; sử dụng mạng xã hội và công nghệ thông tin. Các quan điểm sai trái thù địch đối với nền tảng tư tưởng của ĐCS Việt Nam hiện nay rất đa dạng, tinh vi và có khả năng lan tỏa mạnh mẽ nhờ công nghệ thông tin. Mục tiêu của chúng là làm suy yếu niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN.
Các dạng quan điểm sai trái, thù địch thường gặp trên từng lĩnh vực:
Lĩnh vực chính trị: Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Cho rằng Đảng không còn phù hợp để lãnh đạo, "tha hóa" hoặc "xa rời quần chúng", cần thay thế bằng hệ thống chính trị khác. Cổ súy đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập: Kêu gọi thành lập các đảng phái đối lập, lập luận rằng chế độ một đảng là "độc tài" và "không dân chủ". Xuyên tạc lịch sử cách mạng và vai trò lãnh tụ: Bôi nhọ hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh và các lãnh đạo Đảng, phủ nhận công lao của Đảng trong kháng chiến và xây dựng đất nước.
Lĩnh vực kinh tế: Phê phán kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cho rằng mô hình này "không khả thi", kêu gọi từ bỏ định hướng XHCN để theo kinh tế thị trường tự do hoàn toàn. Cổ súy kinh tế tư nhân thuần túy: Nhấn mạnh kinh tế tư nhân là động lực duy nhất, phản đối sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế. Phóng đại tiêu cực kinh tế: Tập trung vào tham nhũng, bất bình đẳng để khẳng định hệ thống kinh tế hiện tại thất bại.
Lĩnh vực văn hóa: Phủ nhận giá trị văn hóa truyền thống. Xem văn hóa truyền thống là "lạc hậu", kêu gọi thay thế bằng các giá trị phương Tây. Cổ súy lối sống ngoại lai, cá nhân chủ nghĩa: Khuyến khích lối sống hưởng thụ, đề cao vật chất, làm suy yếu giá trị đạo đức cách mạng. Phê phán chính sách văn hóa của Đảng: Cho rằng chính sách văn hóa "kiểm soát tư tưởng", "hạn chế tự do sáng tạo".
Lĩnh vực xã hội: Kích động mâu thuẫn xã hội, tôn giáo, dân tộc. Lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Phê phán chính sách an sinh xã hội: Xem chính sách an sinh là "không hiệu quả", "lãng phí", cho rằng Nhà nước không quan tâm đến dân. Tuyên truyền "xã hội dân sự" kiểu phương Tây: Kêu gọi lập tổ chức "xã hội dân sự" độc lập để đối trọng với chính quyền.
Lĩnh vực quốc phòng: Phê phán tăng cường quốc phòng. Cho rằng đầu tư quốc phòng là "lãng phí", "gây căng thẳng" với các nước láng giềng. Cổ súy giảm ngân sách quốc phòng: Đề xuất cắt giảm chi tiêu quốc phòng để ưu tiên phát triển kinh tế. Xuyên tạc chính sách quốc phòng: Gắn nhãn chính sách quốc phòng Việt Nam là "hiếu chiến", làm giảm uy tín quốc tế.
Lĩnh vực an ninh: Cho rằng biện pháp an ninh vi phạm quyền tự do. Cáo buộc các biện pháp an ninh là "đàn áp", "vi phạm nhân quyền". Kêu gọi "tự do ngôn luận" vô hạn: Đòi hỏi không gian tự do ngôn luận không giới hạn, kể cả phát ngôn chống phá chế độ. Phê phán chính sách an ninh mạng: Xem quy định an ninh mạng là "kiểm duyệt", "hạn chế tự do thông tin".
Lĩnh vực đối ngoại: Phê phán chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ. Cho rằng Việt Nam "lệ thuộc" vào một số quốc gia, chính sách đối ngoại "thiếu tầm nhìn". Kêu gọi liên minh chống lại quốc gia khác: Đề xuất liên minh với phương Tây để "chống lại" nước láng giềng, đi ngược chính sách hòa bình. Xuyên tạc quan hệ ngoại giao: Phóng đại mâu thuẫn trong quan hệ quốc tế để hạ uy tín Việt Nam.
Các quan điểm sai trái, thù địch trên các lĩnh vực này đều hướng tới việc phủ nhận, xuyên tạc chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam, nhằm gây bất ổn định chính trị và xã hội. Việc nhận diện và phân loại rõ ràng các quan điểm này là cơ sở để nâng cao cảnh giác, tăng cường tuyên truyền và có biện pháp xử lý phù hợp.
Phương thức, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch trong việc xuyên tạc, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng.
Tuyên truyền sai lệch qua các kênh truyền thông xã hội và trang web phản động, xuyên tạc lịch sử, bóp méo sự thật
• Phương thức: Các thế lực thù địch tận dụng các nền tảng truyền thông xã hội như Facebook, YouTube, Twitter, cùng các trang web và blog phản động để lan truyền thông tin.
• Thủ đoạn: Đăng tải các bài viết, video, hình ảnh chứa đựng nội dung xuyên tạc, bôi nhọ Đảng và Nhà nước; Bịa đặt thông tin sai sự thật về các sự kiện chính trị, kinh tế, xã hội; Sử dụng ngôn từ kích động, gây hoang mang trong dư luận và tạo ra các tài khoản giả mạo để phát tán thông tin.
• Mục đích: Làm giảm uy tín của Đảng, gây mất niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Ví dụ: Năm 2021, các trang mạng như "Báo Mới" (trụ sở ở nước ngoài) đăng tải bài viết xuyên tạc về vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cho rằng Người "không phải là biểu tượng dân tộc".
- Nhiều video trên YouTube với nội dung giả mạo, như clip "Hồ Chí Minh từng làm việc cho Pháp", bị Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử (Bộ TT&TT) phát hiện và xử lý.
- Cuốn sách "The Vietnam War: A History in Documents" (xuất bản ở Mỹ) cố tình bỏ qua vai trò của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chỉ tập trung vào "sự thất bại của chủ nghĩa cộng sản".
- Năm 2019, một số trang web đăng tải thông tin giả về "cải cách ruộng đất là tội ác diệt chủng", gây chia rẽ nội bộ.
- Kích động và lợi dụng các vấn đề nhạy cảm trong xã hội
• Phương thức: Tập trung khai thác các vấn đề dễ gây tranh cãi như dân tộc, tôn giáo, kinh tế - xã hội để kích động mâu thuẫn.
• Thủ đoạn: Lợi dụng các vụ việc liên quan đến đất đai, tôn giáo để khơi dậy biểu tình, gây rối trật tự công cộng: Phóng đại các vấn đề bất bình đẳng xã hội hoặc tham nhũng nhằm tạo sự bất mãn trong quần chúng; Thành lập hoặc hậu thuẫn các tổ chức "xã hội dân sự" trá hình để tuyên truyền chống đối.
• Mục đích: Gây chia rẽ trong cộng đồng, làm suy yếu sự đoàn kết dân tộc và ổn định chính trị của đất nước.
Ví dụ: - Tổ chức "Chính phủ Việt Nam Tự do" (do Nguyễn Văn Đài thành lập) đã kích động người dân Tây Nguyên biểu tình năm 2018, yêu cầu "thành lập nhà nước Degar độc lập".
- Vụ việc "Hội Thánh Đức Chúa Trời" (một giáo phái bất hợp pháp) tuyên truyền tư tưởng phản động, kêu gọi tín đồ không tuân theo pháp luật Việt Nam (2020).
- Hoạt động gián điệp và xâm nhập từ bên trong
• Phương thức: Xâm nhập vào các tổ chức, cơ quan của Đảng và Nhà nước để thu thập thông tin và thực hiện các hoạt động phá hoại.
• Thủ đoạn: Tuyển mộ, lôi kéo các cán bộ, đảng viên có tư tưởng dao động hoặc bất mãn; Sử dụng công nghệ cao để đánh cắp thông tin mật của Nhà nước; Thực hiện các hành vi phá hoại kinh tế, chính trị từ bên trong bộ máy lãnh đạo.
• Mục đích: Làm suy yếu bộ máy quản lý và điều hành của Đảng, tạo ra sự rối loạn trong hệ thống chính trị.
Ví dụ: - Nhóm "Hội Anh em Dân chủ" (thành lập bởi Trần Huỳnh Duy Thức) liên tục đăng tải bài viết kêu gọi "xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp", yêu cầu thay đổi chế độ chính trị (2016-2020).
- Các tổ chức như "Viet Tan" (Đảng Việt Tân) tuyên truyền về "cách mạng màu" ở Việt Nam, mô phỏng theo các cuộc biểu tình ở Hong Kong.
- Sử dụng các tổ chức quốc tế và NGO để can thiệp
• Phương thức: Hợp tác với các tổ chức quốc tế hoặc tổ chức phi chính phủ (NGO) để tạo áp lực lên Việt Nam dưới danh nghĩa các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền".
• Thủ đoạn: Đưa ra các báo cáo sai lệch về tình hình nhân quyền, tự do tôn giáo tại Việt Nam; Kêu gọi các biện pháp trừng phạt kinh tế, chính trị từ các quốc gia hoặc tổ chức quốc tế đối với Việt Nam.
• Mục đích: Làm xấu hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo cớ để can thiệp vào công việc nội bộ của đất nước.
Ví dụ: - Tổ chức "Con Đường Việt Nam" (do Nguyễn Xuân Anh đứng đầu) nhận tiền từ Quỹ Dân chủ Quốc gia Hoa Kỳ (NED) để tổ chức các khóa đào tạo "xã hội dân sự", nhưng thực chất là tuyên truyền chống phá Nhà nước (2021).
- Cựu luật sư Nguyễn Văn Đài từng thừa nhận nhận tài trợ từ các tổ chức nước ngoài để in ấn tài liệu phản động.
- Tấn công trực tiếp vào nền tảng lý luận của Đảng, lợi dụng vấn đề nhân quyền để gây sức ép
• Phương thức: Phủ nhận giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vốn là nền tảng tư tưởng cốt lõi của Đảng. Dựng lên các cáo buộc về "đàn áp tự do ngôn luận", "bắt giam nhà hoạt động", từ đó kích động cộng đồng quốc tế cô lập Việt Nam.
• Thủ đoạn: Đăng tải các bài viết, nghiên cứu xuyên tạc, cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời và không còn phù hợp với thực tiễn; Bôi nhọ hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, phủ nhận công lao và vai trò của Người trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
• Mục đích: Làm lung lay niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào nền tảng tư tưởng của Đảng, từ đó làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng.
Ví dụ: - Năm 2023, tổ chức Ân xá Quốc tế (Amnesty International) đăng báo cáo sai sự thật về việc "Việt Nam bỏ tù 200 tù nhân lương tâm", trong khi thực tế đó là các đối tượng vi phạm pháp luật.
- Vụ nhà báo Phạm Chí Dũng (bị kết án về tội "Tuyên truyền chống Nhà nước") được các tổ chức nước ngoài như RSF (Phóng viên không biên giới) lợi dụng để vu cáo Việt Nam "đàn áp báo chí".
Ý nghĩa của việc đưa nội dung BVNTTT của Đảng, ĐTPB – QĐSTTĐ vào giảng dạy lý luận chính trị
Trong kỷ nguyên số, thông tin lan truyền nhanh chóng và đa dạng, bao gồm cả những thông tin sai lệch, xuyên tạc, thậm chí độc hại. Nếu cán bộ, học viên không được trang bị "bộ lọc" tư tưởng vững chắc, họ có thể dễ dàng bị tác động tiêu cực, dẫn đến nhận thức lệch lạc về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Việc học tập nội dung này giúp họ có khả năng phân tích, đánh giá thông tin một cách khách quan, khoa học.
Nền tảng tư tưởng của Đảng là kim chỉ nam cho mọi hành động của cán bộ, đảng viên. Việc hiểu sâu sắc và thấm nhuần những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng sẽ củng cố niềm tin, nâng cao bản lĩnh chính trị, giúp cán bộ học viên kiên định mục tiêu lý tưởng, không dao động trước những khó khăn, thách thức hay những luận điệu xuyên tạc.
Lý luận phải gắn liền với thực tiễn. Việc học tập không chỉ dừng lại ở việc nắm vững kiến thức mà còn phải biết vận dụng những nguyên lý, quan điểm của Đảng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra ở cơ sở. Khả năng nhận diện và đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch cũng là một phần quan trọng của việc vận dụng lý luận vào thực tiễn công tác.
Giống như một cơ thể cần hệ miễn dịch để chống lại bệnh tật, đội ngũ cán bộ cũng cần có "sức đề kháng" tư tưởng mạnh mẽ để "miễn nhiễm" với những "virus" độc hại từ các quan điểm sai trái, thù địch. Việc học tập và rèn luyện trong môi trường lý luận chính trị giúp họ xây dựng được "hệ miễn dịch" này.
Việc nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng có ý nghĩa đối với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học để nhìn nhận và giải quyết các vấn đề một cách đúng đắn. Khi nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong hệ thống chính trị và đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, cán bộ học viên sẽ nâng cao ý thức tự giác, tích cực học tập, rèn luyện, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Nền tảng tư tưởng của Đảng không chỉ là hệ thống lý luận mà còn bao hàm những giá trị đạo đức cách mạng cao đẹp. Việc học tập và thấm nhuần những giá trị này giúp cán bộ học viên tu dưỡng đạo đức, lối sống trong sáng, gương mẫu, tận tụy phục vụ nhân dân. Một đội ngũ cán bộ, đảng viên có nhận thức chính trị, tư tưởng vững vàng, có khả năng đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch là nền tảng để xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thách thức.
Do đó, việc đưa nội dung BVNTTT của Đảng, ĐTPB – QĐSTTĐ vào giảng dạy trong chương trình TCLLCT có ý nghĩa sống còn trong việc nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng cho cán bộ học viên hiện nay. Đây là một đầu tư chiến lược cho tương lai của Đảng và của đất nước, giúp xây dựng một đội ngũ cán bộ vừa có năng lực chuyên môn, vừa có bản lĩnh chính trị vững vàng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và phát triển bền vững.
II. Tích hợp nội dung BVNTTT của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy môn Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam
Bộ môn Đường lối chính sách đi sâu vào các lĩnh vực cụ thể của đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, giáo dục đào tạo,…Những nội dung này cung cấp cho người học kiến thức về các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong từng lĩnh vực từ đó giúp học viên có cơ sở lý luận và thực tiễn để nhận diện và đấu tranh với những quan điểm sai lệch, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc và mục tiêu XHCN. Ví dụ, hiểu rõ về kinh tế thị trường định hướng XHCN giúp bác bỏ những luận điệu đòi hỏi "tư nhân hóa toàn bộ" hay "quay trở lại kinh tế kế hoạch hóa tập trung".
Trong phần này, các nội dung cơ bản về nền tảng tư tưởng của Đảng thường được đề cập một cách tương đối rõ ràng trong phần mở đầu và xuyên suốt các chương của giáo trình. Các vấn đề liên quan đến ĐTPB – QĐSTTĐ thường được lồng ghép trong quá trình phân tích các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở các lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, có thể chưa có một chương hoặc mục riêng biệt tập trung một cách hệ thống vào vấn đề này. Việc cập nhật các thông tin, luận cứ mới để đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch trong bối cảnh hiện nay chưa được thể hiện một cách đầy đủ và kịp thời trong giáo trình do thời gian biên soạn và xuất bản.
Nhìn chung, chương trình và giáo trình môn Đường lối chính sách hiện tại được xây dựng theo một logic nhất định, từ khái quát đến cụ thể, từ lý luận đến thực tiễn. Tuy nhiên, việc liên kết một cách hệ thống và xuyên suốt các nội dung liên quan đến BVNTTT và ĐTPB – QĐSTTĐ có thể chưa thực sự nổi bật. Các nội dung này thường được đề cập khi phân tích từng khía cạnh của đường lối, chính sách mà chưa được tổng hợp và làm sâu sắc một cách chuyên biệt. Có thể thấy sự thiếu vắng một hệ thống các luận cứ, phương pháp luận sắc bén và cập nhật để người học có thể chủ động nhận diện và đấu tranh hiệu quả với các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.
Các luận điệu xuyên tạc về vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận sự lựa chọn của lịch sử, các quan điểm sai trái, thù địch thường gặp trong bài: "Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam"
* Phủ nhận tính định hướng XHCN: Các quan điểm này cho rằng việc "định hướng XHCN" chỉ là nguỵ biện, là rào cản cho sự phát triển của kinh tế thị trường "thuần túy", "tự do". Họ cổ súy cho việc tư nhân hóa toàn bộ, giảm thiểu vai trò quản lý của Nhà nước.
* Xuyên tạc vai trò của kinh tế nhà nước: Họ cho rằng kinh tế nhà nước là "gánh nặng", "kém hiệu quả", "nguồn gốc của tham nhũng" và kêu gọi thu hẹp tối đa khu vực kinh tế này.
* Kích động mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội: Họ cố tình tạo ra sự đối lập giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, cho rằng việc ưu tiên tăng trưởng sẽ dẫn đến bất bình đẳng gia tăng.
* Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong phát triển kinh tế: Họ cho rằng sự lãnh đạo của Đảng là "sự can thiệp" không cần thiết, thậm chí gây cản trở cho sự phát triển kinh tế theo quy luật thị trường.
* So sánh khập khiễng, tuyệt đối hóa mô hình kinh tế của các nước khác: Họ thường so sánh một cách phiến diện mô hình kinh tế của Việt Nam với các nước phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa mà bỏ qua bối cảnh lịch sử, điều kiện cụ thể và mục tiêu phát triển riêng của Việt Nam.
- Sử dụng các sự kiện lịch sử, thành tựu cách mạng để chứng minh tính đúng đắn của sự lãnh đạo của Đảng.
* Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng: Chúng ta khẳng định rằng kinh tế thị trường định hướng XHCNlà cơ sở kinh tế, đồng thời phải được dẫn dắt bởi kiến trúc thượng tầng XHCN, trong đó vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước là yếu tố then chốt để đảm bảo định hướng XHCN.
* Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội: Chúng ta chỉ rõ con đường phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCNlà sự lựa chọn phù hợp với mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam độc lập, tự cường và phồn vinh, hạnh phúc.
* Khẳng định tính tất yếu của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, định hướng, ổn định kinh tế vĩ mô và giải quyết các vấn đề mà kinh tế tư nhân không thể hoặc không muốn thực hiện (ví dụ: đầu tư vào cơ sở hạ tầng thiết yếu, vùng sâu vùng xa, an sinh xã hội).
* Làm rõ sự thống nhất biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội: Mục tiêu phát triển của Việt Nam không chỉ là tăng trưởng kinh tế đơn thuần mà còn là phát triển bền vững, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, đảm bảo mọi người dân được hưởng thành quả của sự phát triển.
* Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế: Đảng cộng sản Việt Nam, với đường lối đúng đắn, sáng tạo, đã lãnh đạo đất nước vượt qua nhiều khó khăn, đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế. Sự lãnh đạo của Đảng đảm bảo sự ổn định chính trị, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế theo đúng định hướng.
- Minh họa bằng thực tế:
* Thực tế về vai trò của kinh tế nhà nước: Sự phát triển của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước lớn trong các lĩnh vực then chốt như năng lượng (EVN, PVN), viễn thông (Viettel, VNPT), hạ tầng (Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam - VEC) đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an ninh năng lượng, thông tin và phát triển hạ tầng quốc gia. Đồng thời, Nhà nước đầu tư vào các dự án công ích, y tế, giáo dục mà khu vực tư nhân ít quan tâm, thể hiện rõ vai trò định hướng XHCN.
* Thực tế về sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội: Cùng với tăng trưởng kinh tế, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ người nghèo, các đối tượng chính sách, phát triển y tế, giáo dục, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo. Các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới là minh chứng cho sự quan tâm đến công bằng xã hội trong quá trình phát triển kinh tế.
* Thực tế về sự lãnh đạo của Đảng trong các giai đoạn đổi mới kinh tế: Từ những năm đầu đổi mới với việc xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đến nay là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng đã giúp Việt Nam đạt được những thành tựu ấn tượng về tăng trưởng kinh tế và hội nhập quốc tế.
Các quan điểm phủ nhận thành quả đổi mới, xuyên tạc mục tiêu, phương hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bài "Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức":
* Phủ nhận tính định hướng XHCN trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Các quan điểm này cho rằng việc gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với định hướng XHCN sẽ làm chậm quá trình này, đi ngược lại xu thế "khách quan" của thế giới. Họ cổ súy cho việc "đi tắt đón đầu" theo mô hình của các nước tư bản phát triển mà bỏ qua các yếu tố đặc thù của Việt Nam.
* Xuyên tạc vai trò của Nhà nước trong dẫn dắt quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức: Họ cho rằng sự can thiệp của Nhà nước là "bóp méo" thị trường, cản trở sự sáng tạo và cạnh tranh, và kêu gọi "tự do hóa" hoàn toàn.
* Tạo ra sự đối lập giữa công nghiệp hóa truyền thống và phát triển kinh tế tri thức: Họ cho rằng Việt Nam nên bỏ qua giai đoạn công nghiệp hóa truyền thống để "nhảy vọt" lên kinh tế tri thức, phủ nhận vai trò nền tảng của công nghiệp trong quá trình phát triển.
* Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc xác định đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Họ cho rằng Đảng "áp đặt" ý chí chủ quan, không phù hợp với quy luật thị trường và xu thế quốc tế.
* Bi quan, hoài nghi về khả năng thành công của Việt Nam trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Họ cho rằng Việt Nam tụt hậu, không có đủ nguồn lực và năng lực để nắm bắt cơ hội và vượt qua thách thức của cuộc cách mạng này.
- Phân tích những thành tựu to lớn của đất nước sau đổi mới, làm rõ tính khoa học và thực tiễn của đường lối đổi mới.
* Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin về quy luật phát triển của lịch sử và vai trò của nhà nước kiến tạo: Chúng ta khẳng định rằng công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một quá trình lịch sử tất yếu, nhưng con đường và mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam phải phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và hướng tới mục tiêu XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước kiến tạo.
* Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tự lực, tự cường và khát vọng phát triển: Chúng ta khẳng định tinh thần độc lập, tự chủ, khát vọng vươn lên của dân tộc là động lực quan trọng để thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức.
* Làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức: Công nghiệp hóa và hiện đại hóa tạo nền tảng vật chất - kỹ thuật cho phát triển kinh tế tri thức, đồng thời kinh tế tri thức tạo động lực mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là một quá trình tích hợp, bổ trợ lẫn nhau, không phải là sự thay thế tuyệt đối.
* Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc hoạch định đường lối, chủ trương và huy động sức mạnh tổng hợp của đất nước: Đảng cộng sản Việt Nam đã có sự nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng tình hình trong nước và quốc tế để đưa ra chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, phù hợp với xu thế thời đại và điều kiện cụ thể của Việt Nam.
* Phân tích cơ hội và thách thức của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước: Việt Nam có những lợi thế nhất định trong việc tiếp cận và ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng này, đồng thời Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách cụ thể để tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, đưa đất nước phát triển lên một tầm cao mới.
- Minh họa bằng thực tế
* Thực tế về vai trò của Nhà nước trong định hướng phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn và công nghệ cao: Nhà nước đã có những chính sách ưu đãi, hỗ trợ các ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn như điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin, năng lượng tái tạo. Các khu công nghệ cao, các trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) được nhà nước đầu tư và tạo điều kiện phát triển.
* Thực tế về sự phát triển của các ngành kinh tế dựa trên tri thức: Sự tăng trưởng của ngành công nghệ thông tin, viễn thông, các dịch vụ trực tuyến, giáo dục và đào tạo chất lượng cao, y tế kỹ thuật cao cho thấy Việt Nam đang từng bước phát triển kinh tế tri thức. Số lượng các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (start-up) trong lĩnh vực công nghệ ngày càng tăng.
* Thực tế về việc Việt Nam chủ động nắm bắt cơ hội của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Chính phủ đã ban hành nhiều chương trình, kế hoạch hành động quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển trí tuệ nhân tạo (AI), Internet of Things (IoT), big data... Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu ứng dụng các công nghệ mới vào sản xuất và kinh doanh.
* Thực tế về vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc ban hành các nghị quyết, chỉ thị về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển khoa học công nghệ: Các nghị quyết của Đảng về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, về phát triển khoa học và công nghệ đã định hướng chiến lược và tạo động lực chính trị to lớn cho quá trình này.
III. Giải pháp nâng cao hiệu quả việc đưa nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch vào giảng dạy môn Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam
Đổi mới nội dung, chương trình và giáo trình: Rà soát, cập nhật, bổ sung các nội dung liên quan đến BVNTTT của Đảng, ĐTPB – QĐSTTĐ một cách hệ thống và sâu sắc hơn. Xây dựng các chuyên đề, bài giảng riêng hoặc tích hợp các nội dung này một cách linh hoạt, phù hợp với từng bài học. Bổ sung các tài liệu tham khảo, các vụ việc, sự kiện thực tế để tăng tính thuyết phục và hấp dẫn.
Đổi mới phương pháp giảng dạy: Vận dụng các phương pháp giảng dạy tích cực, tăng cường tính tương tác giữa giảng viên và học viên. Sử dụng các phương tiện trực quan, công nghệ thông tin để minh họa và làm rõ các vấn đề. Tổ chức các hoạt động thảo luận, tranh luận, phân tích tình huống để rèn luyện kỹ năng nhận diện và ĐTPB – QĐSTTĐ. Khuyến khích học viên tự nghiên cứu, tìm hiểu thông tin chính thống và xây dựng lập luận sắc bén.
Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên: Tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên sâu về công tác BVNTTT của Đảng, ĐTPB – QĐSTTĐ. Tạo điều kiện để giảng viên cập nhật thông tin, nâng cao trình độ lý luận chính trị và kỹ năng sư phạm. Khuyến khích giảng viên nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm về việc tích hợp nội dung này vào giảng dạy.
Tăng cường phối hợp giữa nhà trường, các cơ quan chức năng và địa phương: Mời các chuyên gia, báo cáo viên có kinh nghiệm thực tiễn tham gia giảng dạy, trao đổi. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa, tham quan thực tế để học viên có cái nhìn sinh động về tình hình đất nước và công tác BVNTTT của Đảng. Xây dựng cơ chế phối hợp hiệu quả trong việc cung cấp thông tin, tài liệu và định hướng nội dung giảng dạy.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và các phương tiện truyền thông: Xây dựng các bài giảng điện tử, các tài liệu trực tuyến phong phú, hấp dẫn. Sử dụng các nền tảng mạng xã hội, các kênh truyền thông chính thống để lan tỏa thông tin tích cực, đấu tranh với các thông tin sai lệch. Hướng dẫn học viên sử dụng internet và mạng xã hội một cách thông minh, có trách nhiệm.
Việc đưa nội dung BVNTTT của Đảng, ĐTPB – QĐSTTĐ vào giảng dạy môn Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam ở chương trình TCLLCT là thực sự quan trọng và sự cần thiết để nâng cao kiến thức và kỹ năng của học viên trong việc nhận diện và ĐTPB – QĐSTTĐ trong giai đoạn hiện nay. Để đạt hiệu quả cao trong việc tích hợp nội dung BVNTTT của Đảng ĐTPB – QĐSTTĐ vào môn Đường lối chính sách cần phải kết hợp cùng lúc nhiều biện pháp như: Đổi mới nội dung, chương trình và giáo trình; Đổi mới phương pháp giảng dạy; Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên; Tăng cường phối hợp giữa nhà trường, các cơ quan chức năng và địa phương; Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và các phương tiện truyền thông. Việc thực hiện thành công các giải pháp trên mang một ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị và công tác BVNTTT của Đảng trong tình hình mới.
TS. Nguyễn Hữu Đàn
Trường Chính trị tỉnh Thanh Hoá
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). "Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII". Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). "Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII". Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật.
3. Hồ Chí Minh (1995). Toàn tập, tập 12. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
4. Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử (Bộ TT&TT) (2021). "Báo cáo xử lý thông tin sai lệch trên mạng xã hội". Nguồn: http://www.mic.gov.vn
5. Amnesty International (2023). "Báo cáo về tình hình nhân quyền tại Việt Nam". Nguồn:https://www.amnesty.org
6. Tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF) (2023). "Báo cáo tự do báo chí toàn cầu". Nguồn: https://rsf.org
7. Quỹ Dân chủ Quốc gia Hoa Kỳ (NED) (2021). "Báo cáo tài trợ các dự án tại Việt Nam". Nguồn: https://www.ned.org
8. Chính phủ Việt Nam (2020). "Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về công tác xây dựng Đảng". Nguồn: http://www.chinhphu.vn