Từ khóa: Xây dựng Đảng; cán bộ cấp chiến lược; đổi mới phương thức lãnh đạo; năng lực cầm quyền....
1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng, cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số diễn ra nhanh chóng, Đảng Cộng sản Việt Nam đứng trước yêu cầu phải tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo và cầm quyền, bảo đảm năng lực dẫn dắt hệ thống chính trị trong giai đoạn phát triển mới. Văn kiện Đại hội XIII xác định nhiệm vụ trọng tâm là "xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; nâng cao năng lực quản trị quốc gia, đáp ứng mục tiêu đến năm 2045 đưa nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao" [1].
Tính đến đầu năm 2025, cả nước có hơn 5,5 triệu đảng viên sinh hoạt tại trên 52.000 tổ chức cơ sở đảng, cùng gần 2,3 triệu cán bộ, công chức, viên chức trong khu vực công. Đây là lực lượng trực tiếp triển khai đường lối của Đảng, trong đó cán bộ chủ chốt cấp chiến lược giữ vai trò "đầu não", quyết định chất lượng hoạch định và thực thi chính sách. Tuy nhiên, công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng vẫn đứng trước nhiều thách thức. Trong giai đoạn 2012–2022, cấp ủy và Ủy ban Kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 2.700 tổ chức đảng và gần 168.000 đảng viên, trong đó có trên 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng. Năm 2023, cấp ủy và chi bộ kỷ luật 423 tổ chức đảng và 18.130 đảng viên; Ủy ban Kiểm tra các cấp kỷ luật 183 tổ chức đảng và 6.302 đảng viên. Đặc biệt, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 19 cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Năm 2024, cấp ủy và chi bộ tiếp tục kỷ luật 165 tổ chức đảng và 7.858 đảng viên; Ủy ban Kiểm tra các cấp kỷ luật 143 tổ chức đảng và 3.147 đảng viên, riêng Ủy ban Kiểm tra Trung ương kỷ luật 81 tổ chức đảng và 103 đảng viên. Điều này đặt ra yêu cầu cấp bách phải đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo gắn với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược.
Để đáp ứng yêu cầu đó, Trung ương và Bộ Chính trị đã ban hành nhiều văn bản quan trọng: Nghị quyết 26-NQ/TW (2018) về xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược [2]; Nghị quyết 28-NQ/TW (2022) về đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng [3]; cùng loạt văn bản mới nhất năm 2025, như Nghị quyết 74-NQ/TW (06/11/2025) về chuẩn bị nhân sự Đại hội XIV; Kết luận 198-KL/TW (08/10/2025) về đổi mới đánh giá cán bộ; Kết luận 205-KL/TW (07/11/2025) về các giải pháp đột phá trong công tác cán bộ; Chỉ thị 53-CT/TW (26/10/2025) về tăng cường trách nhiệm giải trình; và Quy chế 08-QC/TW (05/11/2025) về theo dõi, kiểm tra nhiệm vụ trên hệ thống dữ liệu thời gian thực. Những văn bản này tạo dựng khung thể chế mới cho đổi mới phương thức lãnh đạo và khẳng định vai trò then chốt của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp chiến lược. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu cơ sở lý luận – thực tiễn và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ này là nhiệm vụ mang tính cấp bách và lâu dài, nhằm góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng trong giai đoạn phát triển mới
2. Cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp chiến lược trong đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
2.1. Cơ sở lý luận về Đảng cầm quyền và phương thức lãnh đạo, cầm quyền
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, đảng cộng sản là đội tiên phong chính trị, đại biểu cho lợi ích căn bản, lâu dài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; giữ vai trò lãnh đạo cách mạng thông qua việc hoạch định đường lối, tổ chức lực lượng và phát huy vai trò chủ thể của quần chúng. Tư tưởng Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển sáng tạo nguyên lý đó, khẳng định: "Đảng ta là đảng cầm quyền", nhưng Đảng chỉ thật sự xứng đáng vai trò cầm quyền khi vừa là đạo đức, là văn minh, vừa gắn bó mật thiết với nhân dân, "là người lãnh đạo, đồng thời là đầy tớ thật trung thành của nhân dân" [1]. Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng được thực hiện chủ yếu bằng: (i) Cương lĩnh, chiến lược, định hướng lớn; (ii) Đường lối, chủ trương, nghị quyết; (iii) Nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; (iv) Thông qua Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cả hệ thống chính trị; (v) Thông qua công tác tư tưởng, tổ chức, kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng; (vi) Gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân và vì nhân dân phục vụ [1], [3].
Nghị quyết số 28-NQ/TW (2022) khẳng định yêu cầu "tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng" trong bối cảnh mới, trong đó nhấn mạnh các nội dung: hoàn thiện thể chế bảo đảm "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ"; tăng cường lãnh đạo bằng định hướng chiến lược, cơ chế, chính sách, kiểm tra, giám sát hơn là can thiệp sâu vào công việc quản lý hàng ngày của bộ máy nhà nước; đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, nhất là cấp chiến lược [3]. Như vậy, đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền không chỉ là điều chỉnh kỹ thuật quản lý, mà là quá trình đổi mới toàn diện từ tư duy lý luận, thiết kế thể chế, đến tổ chức thực thi và văn hóa lãnh đạo, trong đó nhân tố quyết định là chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp chiến lược – những người thiết kế, dẫn dắt và hiện thực hóa phương thức lãnh đạo đó.
2.2. Khái niệm và đặc điểm của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp chiến lược
Nghị quyết số 26-NQ/TW (2018) lần đầu tiên sử dụng khái niệm "đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược", xác định đây là lực lượng giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính trị, trực tiếp tham gia hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước [2], [4].Trên cơ sở đó, có thể khái quát: cán bộ chủ chốt cấp chiến lược là những cán bộ lãnh đạo, quản lý giữ vị trí nòng cốt ở Trung ương và các địa phương, ban, bộ, ngành; có phạm vi và mức độ ảnh hưởng lớn đến định hướng phát triển toàn diện của đất nước. Đội ngũ này thường bao gồm: Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo chủ chốt của các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội, một số vị trí chủ chốt ở địa phương, ngành, lĩnh vực chiến lược. Nghị quyết 26-NQ/TW xác định 5 nhóm yêu cầu cơ bản đối với đội ngũ cán bộ, nhất là cấp chiến lược: (i) Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; (ii) Phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống gương mẫu; (iii) Năng lực, trình độ, tư duy chiến lược, khả năng đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm; (iv) Phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, gần dân, trọng dân; (v) Uy tín cao trong Đảng và trong nhân dân [2]. Với vai trò đó, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp chiến lược chính là "hạt nhân" hình thành và vận hành phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong thực tế: họ là những người xây dựng nghị quyết, thiết kế chính sách, tổ chức bộ máy, phân bổ nguồn lực, dẫn dắt cải cách thể chế và là những tấm gương cụ thể hóa chuẩn mực đạo đức cách mạng.
2.3. Cơ sở thực tiễn: quy mô tổ chức đảng, đội ngũ đảng viên và cán bộ
Hiện nay, cả nước có trên 5,3 triệu đảng viên, sinh hoạt tại 51.827 tổ chức cơ sở đảng [4]. Đây là nền tảng chính trị – xã hội bảo đảm cho vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Về phía bộ máy nhà nước, số liệu thống kê của Bộ Nội vụ cho thấy tính đến 31/12/2022 có khoảng 254.757 công chức hành chính từ cấp huyện trở lên, 256.393 cán bộ, công chức cấp xã và 1.743.326 viên chức [5]. Quy mô lớn về tổ chức và nhân lực đặt ra yêu cầu phải có một đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp chiến lược đủ tầm, đủ tâm để định hướng, tổ chức và điều hòa hoạt động của toàn hệ thống. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong bối cảnh này không thể chỉ dừng ở những điều chỉnh cục bộ, mà cần cách tiếp cận hệ thống, trong đó tái cấu trúc chức năng, nhiệm vụ của cấp chiến lược, phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, gắn với kiểm soát quyền lực, là vấn đề then chốt.
Ngoài ra, thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, tham gia hàng loạt hiệp định thương mại tự do (FTA, CPTPP, EVFTA…), chuyển đổi số quốc gia, sự phát triển của kinh tế số, xã hội số, cùng với các thách thức an ninh phi truyền thống (biến đổi khí hậu, dịch bệnh, an ninh mạng, an ninh năng lượng…) đòi hỏi đội ngũ cán bộ cấp chiến lược phải có năng lực quản trị rủi ro, tư duy liên ngành và tầm nhìn toàn cầu. Điều này tạo ra áp lực lớn nhưng đồng thời là cơ hội để tái định nghĩa chuẩn năng lực và phương thức lãnh đạo của Đảng trong bối cảnh mới [1], [3], [6].
2.4. Thực tiễn xây dựng, chỉnh đốn Đảng và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực gắn với đội ngũ cán bộ cấp chiến lược
Thời gian qua, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đạt nhiều kết quả nổi bật, tiếp tục khẳng định quyết tâm chính trị rất cao của Đảng. Trong giai đoạn 2012–2022, cấp ủy và Ủy ban Kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 2.700 tổ chức đảng và gần 168.000 đảng viên, trong đó có trên 7.390 đảng viên bị kỷ luật liên quan đến tham nhũng [6]. Hệ thống văn bản chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư giai đoạn này cũng rất toàn diện, với hơn 40 chỉ thị, nghị quyết, quy định và kết luận về xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực [6], [9].
Những năm gần đây, để chuẩn bị cho Đại hội XIV và đáp ứng yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo trong bối cảnh chuyển đổi số, Trung ương và Bộ Chính trị tiếp tục ban hành nhiều chủ trương quan trọng. Nghị quyết số 74-NQ/TW ngày 06/11/2025 của Hội nghị Trung ương 14 khóa XIII nhấn mạnh siết chặt kỷ luật, kỷ cương; chuẩn hóa tiêu chuẩn, quy trình đánh giá, lựa chọn nhân sự cấp chiến lược; đẩy mạnh đổi mới phương thức lãnh đạo trong điều kiện hội nhập và chuyển đổi số [1]. Kết luận số 198-KL/TW ngày 08/10/2025 yêu cầu đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý định kỳ theo quý, năm và đột xuất, dựa trên tiêu chí cụ thể gắn chặt giữa phẩm chất, uy tín với kết quả thực hiện nhiệm vụ [3]. Kết luận số 205-KL/TW ngày 07/11/2025 đề xuất nhiều giải pháp đột phá về tuyển dụng, bố trí, sử dụng và đãi ngộ, tạo động lực mạnh hơn cho cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược [3]. Đồng thời, phương thức lãnh đạo, kiểm tra, giám sát của Đảng được đổi mới mạnh mẽ theo hướng số hóa – dữ liệu hóa. Tiêu biểu là Quy chế số 08-QC/TW ngày 05/11/2025 về theo dõi, đôn đốc, kiểm tra nhiệm vụ trên hệ thống dữ liệu và thời gian thực; Quy định số 379-QĐ/TW ngày 22/10/2025 về giao dịch điện tử trong hoạt động của các cơ quan Đảng; và Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 26/10/2025 về tăng cường trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ. Các văn bản này góp phần hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực, nâng cao tính công khai, minh bạch trong lãnh đạo và cầm quyền [3].
Những kết quả và yêu cầu trên cho thấy rõ mối quan hệ trực tiếp giữa chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp chiến lược và uy tín, năng lực lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, thực tiễn vẫn còn không ít hạn chế: một bộ phận cán bộ, kể cả cán bộ cấp chiến lược, chậm đổi mới, thiếu tư duy chiến lược; một số trường hợp vi phạm nghiêm trọng về đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực phải xử lý kỷ luật; công tác đánh giá, quy hoạch, bố trí cán bộ có nơi còn hình thức, nặng về bằng cấp, quan hệ; cơ chế kiểm soát quyền lực còn kẽ hở [1], [2], [3], [6], [7]. Bối cảnh đó càng khẳng định vai trò quyết định của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp chiến lược trong việc định hình và hiện thực hóa phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; đồng thời đặt ra yêu cầu phải có hệ thống giải pháp đồng bộ, vững chắc về lý luận và thực tiễn để phát huy tối đa vai trò của đội ngũ này trong giai đoạn tới.
3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp chiến lược trong đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
3.1. Hoàn thiện đồng bộ thể chế về xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo
Trước hết, cần tiếp tục thể chế hóa các quan điểm của Nghị quyết số 26-NQ/TW (2018) về xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và Nghị quyết số 28-NQ/TW (2022) về đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng thành hệ thống quy định, quy chế, quy trình cụ thể về tiêu chuẩn, đánh giá, quy hoạch, bổ nhiệm, luân chuyển và sử dụng cán bộ cấp chiến lược [2], [3]. Một yêu cầu quan trọng hiện nay là chuẩn hóa bộ tiêu chí cán bộ cấp chiến lược theo hướng kết hợp giữa phẩm chất chính trị, đạo đức, uy tín với năng lực hoạch định chính sách, lãnh đạo cải cách thể chế, quản trị rủi ro và chuyển đổi số. Các tiêu chí cần được lượng hóa tối đa (như mức độ hoàn thành mục tiêu của ngành, địa phương; chỉ số cải cách hành chính – PAR Index; chỉ số chuyển đổi số – DTI; mức độ hài lòng của người dân và doanh nghiệp), làm cơ sở cho đánh giá khách quan. Bên cạnh đó, cần tăng cường công khai, minh bạch trong quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ; mở rộng phản biện và giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và nhân dân, phù hợp tinh thần "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ" [3]. Gần đây, Kết luận số 198-KL/TW ngày 08/10/2025 của Bộ Chính trị đã yêu cầu đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý định kỳ hằng quý, hằng năm và đột xuất trên cơ sở tiêu chí rõ ràng, gắn trách nhiệm nêu gương với kết quả thực hiện nhiệm vụ và mức độ tín nhiệm [3]. Đây là bước hoàn thiện quan trọng tạo cơ sở chính trị – pháp lý để đẩy mạnh đổi mới công tác đánh giá và lựa chọn cán bộ cấp chiến lược, bảo đảm "đúng người – đúng việc", khắc phục tình trạng hình thức, nể nang, cảm tính, đồng thời tăng cường trách nhiệm giải trình và kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ.
3.2. Đổi mới căn bản công tác đánh giá, lựa chọn và sử dụng cán bộ cấp chiến lược theo hướng "vì việc tìm người"
Thực tiễn cho thấy, nếu công tác đánh giá cán bộ không đúng, không trúng sẽ dẫn tới "chọn sai người", kéo theo hệ lụy về chính trị, kinh tế, xã hội. Do đó, cần chuyển mạnh từ đánh giá chủ yếu dựa trên quá trình, bằng cấp, hồ sơ sang đánh giá dựa trên sản phẩm, kết quả cụ thể, đo đếm được, có so sánh với mục tiêu và chuẩn mực đã định. Các chỉ số như: tăng trưởng kinh tế, chất lượng môi trường đầu tư kinh doanh, chỉ số cải cách hành chính (PAR-Index), chỉ số chuyển đổi số (DTI), mức độ hài lòng của người dân (SIPAS)… ở địa phương, ngành do cán bộ cấp chiến lược phụ trách cần được xem là một phần quan trọng trong đánh giá năng lực, hiệu quả lãnh đạo [1], [5]. Đồng thời, cần mở rộng hơn nữa việc luân chuyển cán bộ giữa Trung ương và địa phương, giữa các vùng miền, ngành, lĩnh vực; bố trí cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở những nơi khó khăn, phức tạp để rèn luyện; có cơ chế "đầu vào – đầu ra" rõ ràng đối với cán bộ cấp chiến lược: không hoàn thành nhiệm vụ, uy tín thấp phải được xem xét thay thế kịp thời [2], [3], [7].
3.3. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược theo chuẩn mực lãnh đạo trong kỷ nguyên số
Trong bối cảnh mới, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp chiến lược cần được đổi mới toàn diện theo hướng hiện đại, liên ngành và gắn với chuẩn năng lực lãnh đạo mới. Nội dung đào tạo phải tập trung vào các nhóm năng lực cốt lõi: (i) tư duy chiến lược, hoạch định chính sách công, dự báo xu thế; (ii) quản trị chuyển đổi số, quản trị dữ liệu, an ninh mạng, kinh tế số – xã hội số; (iii) lãnh đạo đổi mới sáng tạo, quản trị thay đổi, truyền thông chính sách, quản trị khủng hoảng; (iv) đạo đức công vụ, văn hóa lãnh đạo, tính nêu gương, kỹ năng đối thoại và lắng nghe nhân dân.
Các học viện, cơ sở đào tạo chính trị – hành chính cần đẩy mạnh liên kết quốc tế, áp dụng mô hình đào tạo kết hợp (blended learning), học tập suốt đời và tăng cường thực tiễn. Những yêu cầu này phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số 74-NQ/TW (06/11/2025) của Hội nghị Trung ương 14 khóa XIII về chuẩn bị nhân sự cấp chiến lược cho Đại hội XIV và đổi mới công tác cán bộ; cũng như Kết luận số 205-KL/TW (07/11/2025) của Bộ Chính trị về các giải pháp đột phá trong tuyển dụng, bố trí, sử dụng và đãi ngộ cán bộ, nhằm tạo môi trường thuận lợi cho cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới vì lợi ích chung [1], [3]. Bên cạnh đào tạo tập trung, cần đặc biệt coi trọng cơ chế tự đào tạo, tự bồi dưỡng. Mỗi cán bộ cấp chiến lược phải trở thành một "tổ chức học tập", chủ động cập nhật kiến thức về kinh tế, pháp luật, khoa học – công nghệ, ngoại ngữ và kỹ năng số, phù hợp tinh thần "học, học nữa, học mãi" mà Đảng nhiều lần nhấn mạnh. Đây là yếu tố quyết định để đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong thời kỳ hội nhập và chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay.
3.4. Hoàn thiện cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung
Trước yêu cầu thời cuộc, Nghị định số 73/2023/NĐ-CP đã tạo hành lang pháp lý quan trọng để khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung [8]. Vấn đề đặt ra hiện nay là tổ chức triển khai đồng bộ, bảo đảm Nghị định thực sự vận hành như một "lá chắn pháp lý" đối với đội ngũ cán bộ cấp chiến lược trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Cần sớm ban hành hướng dẫn chi tiết về tiêu chí xác định cán bộ năng động, sáng tạo; quy trình xem xét, đánh giá, công nhận; cũng như cơ chế miễn, giảm hoặc loại trừ trách nhiệm đối với các quyết định đổi mới vì lợi ích chung nhưng phát sinh rủi ro khách quan. Đồng thời, phải phân định rõ ràng giữa sai sót trong đổi mới và vi phạm do vụ lợi, tham nhũng, tiêu cực, nhằm tránh bị lợi dụng và giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong Đảng.
Trong bối cảnh Đảng đẩy mạnh đổi mới phương thức lãnh đạo, yêu cầu trên càng phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số 74-NQ/TW (06/11/2025) về chuẩn bị nhân sự cấp chiến lược cho Đại hội XIV, nhấn mạnh bảo vệ cán bộ dám đổi mới, dám chịu trách nhiệm; và Kết luận số 205-KL/TW (07/11/2025) về giải pháp đột phá trong tuyển dụng, bố trí, sử dụng và đãi ngộ cán bộ nhằm khuyến khích đổi mới sáng tạo [1], [3]. Ở cấp tổ chức, cần đưa việc thực hiện Nghị định 73/2023/NĐ-CP, cùng các quy định, chỉ thị mới của Trung ương, vào nội dung kiểm tra, giám sát và đánh giá hằng năm. Số lượng và chất lượng sáng kiến đột phá, mô hình cải cách thành công phải trở thành thước đo quan trọng đối với tập thể lãnh đạo và người đứng đầu. Khi những cơ chế này được vận hành đồng bộ, đội ngũ cán bộ cấp chiến lược sẽ có đủ nền tảng pháp lý và động lực để đưa ra các quyết định cải cách mạnh mẽ, góp phần đổi mới thực chất phương thức lãnh đạo và nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng.
3.5. Tăng cường kiểm soát quyền lực, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với nêu gương của cán bộ cấp chiến lược
Kinh nghiệm 10 năm phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cho thấy việc kiểm soát quyền lực trong Đảng là điều kiện tiên quyết để đổi mới phương thức lãnh đạo theo hướng trong sạch, minh bạch, hiệu quả [6], [9]. Cần tiếp tục hoàn thiện các quy định về kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng (như Quy định 69-QĐ/TW), bảo đảm mọi quyền lực đều được ràng buộc bằng trách nhiệm và cơ chế giám sát. Một mặt, tăng cường trách nhiệm của Ủy ban kiểm tra các cấp, gắn với vai trò giám sát của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, báo chí, nhân dân; mặt khác, phải thực hiện nghiêm trách nhiệm nêu gương, đặc biệt đối với cán bộ cấp chiến lược. Khi người đứng đầu, các đồng chí trong cấp ủy cấp chiến lược thực sự gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện, thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, tiêu cực, thì uy tín và sức thuyết phục của Đảng trong lãnh đạo, cầm quyền sẽ được củng cố bền vững. Đồng thời, cần làm tốt công tác sàng lọc cán bộ, kiên quyết đưa ra khỏi vị trí lãnh đạo, quản lý những người suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", vi phạm kỷ luật, mất uy tín; coi đây là một tiêu chí quan trọng đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu ở cấp chiến lược.
Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 26/10/2025 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ, cùng với Quy chế số 08-QC/TW và Quy định số 379-QĐ/TW về giao dịch điện tử, theo dõi, kiểm tra nhiệm vụ trên nền tảng dữ liệu thời gian thực, tạo điều kiện để phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ngày càng dựa trên thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời, qua đó kiểm soát tốt hơn quyền lực, hạn chế nguy cơ lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực [3].
3.6. Xây dựng văn hóa lãnh đạo, phát huy sức mạnh đồng thuận xã hội trong đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền
Cuối cùng, vai trò của đội ngũ cán bộ cấp chiến lược chỉ được phát huy tối đa khi gắn với một nền văn hóa lãnh đạo lành mạnh, đề cao tinh thần phục vụ nhân dân, tôn trọng pháp luật, tôn trọng sự thật khách quan. Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh phải "phát triển con người toàn diện, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước" [1], [6]. Điều này phải được cụ thể hóa trong văn hóa lãnh đạo và văn hóa cầm quyền của Đảng. Đội ngũ cán bộ cấp chiến lược cần đi đầu trong việc thực hiện dân chủ trong Đảng gắn với kỷ luật, kỷ cương; lắng nghe ý kiến phản biện khoa học; đối thoại với nhân dân; sử dụng hiệu quả các kênh thông tin số để tương tác hai chiều với xã hội, qua đó vừa củng cố niềm tin, vừa nâng cao chất lượng hoạch định và thực thi chính sách. Khi văn hóa lãnh đạo của đội ngũ cấp chiến lược được xây dựng trên nền tảng bản lĩnh chính trị, trí tuệ, đạo đức, tính chuyên nghiệp và tinh thần phục vụ, thì phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng cũng sẽ mang đậm tính văn minh, hiện đại và nhân văn, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững trong giai đoạn mới.
Tài liệu tham khảo
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Tập 1, 2). Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật.
[2] Ban Chấp hành Trung ương Đảng. (2018). Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
[3] Ban Chấp hành Trung ương Đảng. (2022). Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới.
[4] Ban Tổ chức Trung ương. (2022). Cả nước có hơn 5,3 triệu đảng viên. Báo Bà Rịa – Vũng Tàu.
[5] Bộ Nội vụ. (2023). Số liệu thống kê cán bộ, công chức, viên chức nhà nước tính đến 31/12/2022. Cổng thông tin điện tử Bộ Nội vụ.
[6] Ban Nội chính Trung ương. (2022). 10 năm phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và những con số đáng chú ý (2012–2022). VOV
[7] Bộ Chính trị. (2022). Quy định số 69-QĐ/TW ngày 06/7/2022 về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm.
[8] Chính phủ. (2023). Nghị định số 73/2023/NĐ-CP ngày 29/9/2023 quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.
[9] Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. (2024). Phiên họp thứ 27 Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực: Một số kết quả nổi bật và nhiệm vụ trọng tâm. Cổng thông tin Chính phủ.
[10] Ban Chấp hành Trung ương Đảng. (2025). Nghị quyết số 74-NQ/TW ngày 06/11/2025 Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Tư liệu Văn kiện Đảng.
[11] Bộ Chính trị. (2025). Kết luận số 198-KL/TW ngày 08/10/2025 về chủ trương đánh giá đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị. Cổng thông tin điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam; Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
[12] Bộ Chính trị. (2025). Kết luận số 205-KL/TW ngày 07/11/2025 về một số giải pháp đột phá trong tuyển dụng, bố trí, sử dụng, đãi ngộ cán bộ. Hệ thống văn bản Đảng Cộng sản Việt Nam.
[13] Bộ Chính trị. (2025). Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 26/10/2025 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động công vụ. Ủy ban Kiểm tra Trung ương.
[14] Ban Bí thư/Bộ Chính trị. (2025). Quy chế số 08-QC/TW ngày 05/11/2025 về theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ trên Hệ thống theo dõi, đánh giá dựa trên dữ liệu và theo thời gian thực; Quy định số 379-QĐ/TW ngày 22/10/2025 về thực hiện giao dịch điện tử trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức đảng.
ThS. Hoàng Long
Trường Chính trị Nguyễn Văn Cừ, tỉnh Bắc Ninh