Vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong đối ngoại quốc phòng của Quân chủng Hải quân hiện nay

Thứ sáu, 05/12/2025 - 11:07

Tóm tắt: Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là sản phẩm kết hợp chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa dân tộc, ngoại giao Việt Nam, tinh hoa văn hóa của nhiều dân tộc phương Đông và phương Tây và kinh nghiệm ngoại giao thế giới. Trước tình hình thế giới, khu vực, Biển Đông có nhiều biến động khó lường, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong đối ngoại quốc phòng của Quân chủng Hải quân có ý nghĩa chiến lược, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Từ khóa: Hồ Chí Minh; đối ngoại quốc phòng; hải quân, ngoại giao

1. Đặt vấn đề

Quân chủng Hải quân (QCHQ) là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo; với tính chất, môi trường hoạt động trên biển "có tính mở, tính quốc tế cao" nên đố ngoại quốc phòng (ĐNQP) của QCHQ là giải pháp hữu hiệu trực tiếp tạo dựng, củng cố môi trường hòa bình, xây dựng lòng tin; giảm thiểu bất đồng, đối đầu trong giải quyết các "điểm nóng" nhạy cảm; kiểm soát nguy cơ xung đột trên biển; hiện đại hóa lực lượng Hải quân, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của đất nước, Quân đội và Quân chủng trên trường quốc tế. Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh có giá trị to lớn trong ĐNQP của QCHQ trong điều kiện đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay. Trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Tổ quốc, việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh vào nhiệm vụ ĐNQP của QCHQ là vấn đề có ý nghĩa cả lý luận và thực tiễn.

2. Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh

Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thấm nhuần tinh thần độc lập tự chủ

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hai yếu tố có mối quan hệ biện chứng, không thể tách rời. "Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì."(1) Đây là kim chỉ nam để hoạt động ngoại giao Việt Nam vừa bảo vệ độc lập, chủ quyền, vừa tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ đời sống nhân dân nhưng phải "dựa vào sức mình là chính, đồng thời đánh giá cao sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em"(2); đồng thời "phải có tinh thần dân tộc vững chắc và tinh thần quốc tế đúng đắn."(3) Theo Hồ Chí Minh, mỗi người Việt Nam phải nuôi dưỡng lòng yêu nước sâu sắc, giữ vững tự tôn dân tộc, coi đó là nền tảng vững chắc của cách mạng. Tuy nhiên, tinh thần dân tộc ấy không thể khép kín hay cực đoan, mà phải gắn liền với tinh thần quốc tế trong sáng, tức là biết ủng hộ cái tiến bộ, đoàn kết với các dân tộc bị áp bức; tuyệt đối tránh tư tưởng áp đặt hoặc rơi vào lệ thuộc, đánh mất độc lập, tự chủ của đất nước. Sự kết hợp giữa dân tộc và quốc tế chính là con đường đúng đắn để vừa bảo vệ bản sắc, độc lập dân tộc, vừa hòa nhập, phát huy sức mạnh thời đại. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thấm nhuần tinh thần độc lập tự chủ là nguyên tắc giúp Việt Nam chủ động xử lý các mối quan hệ, vừa giữ vững bản lĩnh, vừa tận dụng thời cơ để mở rộng hợp tác; tự chủ quyết định đường lối, không lệ thuộc bất kỳ thế lực nào.

Hai là, gắn dân tộc với quốc tế; sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại

Sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam muốn thành công phải dựa trên nội lực dân tộc, đồng thời tranh thủ nguồn lực quốc tế, bởi vì: "Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới."(4) Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ ngoại giao năm 1955, Người chỉ rõ: "muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã."(5) Để cảm ơn tình cảm của bạn bè quốc tế đối với cách mạng Việt Nam, Người mong muốn "tôi sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu..."(6) Tư tưởng này phản ánh rõ nguyên tắc kết hợp sức mạnh dân tộc - tức là ý chí độc lập tự cường, sức mạnh đoàn kết toàn dân với sức mạnh thời đại - tức là sự ủng hộ của bạn bè quốc tế nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp. Hồ Chí Minh không chỉ coi ủng hộ quốc tế là nguồn lực cho giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước mà còn xem đó là nghĩa tình, là trách nhiệm của dân tộc Việt Nam đối với phong trào cách mạng thế giới, thể hiện sâu sắc tình thần quốc tế của giai cấp vô sản.

Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa mặt trận ngoại giao với chính trị và quân sự

Xác định rõ ngoại giao là một bộ phận hữu cơ của cách mạng, gắn bó mật thiết với chính trị và quân sự, Người khẳng định: "Các công tác phải phối hợp và liên hệ với nhau, bộ phận phối hợp với toàn cục, v.v.. Mỗi công tác phải hợp với từng nơi, từng lúc, từng hoàn cảnh."(7) Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh chủ trương kết hợp ngoại giao với chính trị, quân sự để bảo vệ thành quả cách mạng. Do đó, trong Hiệp định Sơ bộ giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ Pháp ngày 06/3/1946 có nội dung "… hai Chính phủ lập tức quyết định mọi phương sách cần thiết để đình chỉ ngay cuộc xung đột, để giữ nguyên quân đội hai bên tại vị trí hiện thời và để gây ra một bầu không khí êm dịu cần thiết cho việc mở ngay các cuộc điều đình thân thiện và thành thực."(8) Hiệp định sơ bộ là bước đi ngoại giao quan trọng, trong đó hòa để tiến, không phải là nhượng bộ vô nguyên tắc, mà là để giữ vững lực lượng, chuẩn bị cho bước phát triển mới. Đặc biệt, thắng lợi quân sự của Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không năm 1972 tại bầu trời Hà Nội tạo ra ưu thế chính trị, dẫn đến sự thành công trên mặt trận ngoại giao tại Hiệp định Paris, tạo ra thế và lực mới cho tổng tiến công và Đại thắng mùa xuân năm 1975.

Bốn là, phát huy truyền thống hòa hiếu dân tộc, nắm vững và giương cao ngọn cờ hòa bình, hữu nghị, sẵn sàng là bạn của các nước trong cộng đồng quốc tế, không gây thù oán với ai

Truyền thống hòa hiếu dân tộc được Hồ Chí Minh khẳng định trong chính sách đối ngoại là "làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai,"(9) thể hiện rõ cam kết của Việt Nam trong việc xây dựng mối quan hệ hòa bình, hữu nghị với các quốc gia trên thế giới. Hồ Chí Minh luôn nắm vững và giương cao ngọn cờ hòa bình, hữu nghị nhưng kiên quyết bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc gia. Trả lời phóng viên báo "Pari-Sài Gòn" ngày 13/12/1946, Người khẳng định: "Chúng tôi không muốn chiến tranh. Tôi biết là nhân dân Pháp không muốn chiến tranh. Cuộc chiến tranh này chúng tôi muốn tránh bằng đủ mọi cách."(10) Người cho rằng, sự đoàn kết quốc tế là sức mạnh to lớn giúp các dân tộc nhỏ bé như Việt Nam có thể giành độc lập, tự do, Người viết: "Đoàn kết chặt chẽ với nhân dân các nước bạn, nhân dân hai nước Cao Miên, Lào, nhân dân châu Á, nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới."(11) Đối với các nước lớn, Hồ Chí Minh luôn khẳng định nguyên tắc độc lập, tự chủ, đồng thời sẵn sàng hợp tác trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau: "Nhân dân Việt Nam chúng tôi rất yêu chuộng hoà bình, một nền hoà bình chân chính trong độc lập và tự do thật sự."(12) Tư tưởng đó thật sự trở thành kim chỉ nam cho hoạt động ngoại giao của đất nước.

Năm là, kiên trì phương châm "dĩ bất biến, ứng vạn biến"

Tư tưởng "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết hợp giữa kiên định mục tiêu, nguyên tắc với khả năng linh hoạt trong sách lược, ứng phó với những biến động của tình hình thực tiễn. Trước khi lên đường sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao đổi với cụ Huỳnh Thúc Kháng: Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở Cụ cùng anh em giải quyết cho. Mong Cụ "dĩ bất biến ứng vạn biến". Đây là sự sáng tạo, linh hoạt, khéo léo trong việc lựa chọn phương pháp phù hợp với hoàn cảnh, đòi hỏi: "Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì phải linh hoạt."(13) Để giữ vững được thành quả cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ"(14); "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một."(15) Đó là nguyên tắc "bất biến", là cơ sở để hoạch định các chủ trương, đường lối "vạn biến" trong đường lối ngoại giao.

Sáu là, bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, quản lý của Nhà nước; coi trọng đào tạo, bồi dưỡng con người làm công tác ngoại giao

Theo Hồ Chí Minh: "Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và định phương châm cho đúng,"(16) việc đặt ngoại giao dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng giúp định hướng chính sách đối ngoại phù hợp với đường lối cách mạng, giữ vững lập trường trước những tình huống phức tạp trên trường quốc tế. Cùng với đó, Người nhấn mạnh vai trò quản lý của Nhà nước, phải tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra công tác ngoại giao, bảo đảm tính thống nhất và hiệu quả. Người đặc biệt quan tâm đội ngũ cán bộ ngoại giao vì "cán bộ là cái gốc của mọi công việc"(17); "Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém."(18) Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ ngoại giao phải quyết tâm học tập và tu dưỡng, rèn luyện bản thân; "Cán bộ càng phải phát triển thêm, nên Bộ Ngoại giao cần có kế hoạch đào tạo cán bộ."(19) Đội ngũ cán bộ ngoại giao phải được đào tạo bài bản, am hiểu quốc tế, có đạo đức cách mạng vững chắc sẽ là nền tảng để xây dựng nền ngoại giao hiệu quả, bảo vệ lợi ích quốc gia và tăng cường vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

3. Đối ngoại quốc phòng của Quân chủng Hải quân theo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh

"Quân chủng Hải quân được thành lập ngày 07/5/1955, là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ trên các vùng biển, đảo của Việt Nam và xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên biển; có nhiệm vụ bảo vệ vững chắc vùng biển, đảo thuộc chủ quyền quốc gia, sẵn sàng chiến đấu độc lập hoặc hiệp đồng tác chiến, đánh bại cuộc tiến công trên hướng biển."(20) Đối ngoại quốc phòng của QCHQ là một bộ phận của ĐNQP Việt Nam bao gồm tổng thể các hoạt động có mục đích, có tổ chức của các tổ chức, các lực lượng trong QCHQ nhằm thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước, Quân đội theo chức năng, nhiệm vụ; xây dựng, củng cố môi trường hòa bình, ổn định trên biển; tranh thủ tối đa điều kiện hợp tác quốc phòng thuận lợi nhằm tăng cường tiềm lực, nâng cao sức mạnh quốc phòng, góp phần nâng cao vị thế, vai trò, uy tín Việt Nam, Quân đội, Quân chủng trên trường quốc tế, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Thời gian qua, QCHQ đã làm tốt việc tham mưu, đề xuất Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao về xây dựng, ban hành, hoàn thiện các chiến lược, quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Việt Nam liên quan đến chủ quyền biển, đảo; các cơ chế hợp tác, giám sát, bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông; tham mưu đoàn đàm phán của Bộ Ngoại giao Việt Nam về phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế giữa Việt Nam với Indonesia, phân định khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc… Các lực lượng của QCHQ đã "gắn thực địa với bàn đàm phán, từ kết quả đàm phán để điều chỉnh hoạt động trên thực địa, ngăn ngừa leo thang căng thẳng trên biển, góp phần xử lý hiệu quả các tình huống phức tạp, nảy sinh; kiên quyết bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chính đáng của ta trên Biển Đông."(21)

Trên bình diện song phương, QCHQ đã có quan hệ hợp tác với hải quân 50 nước, trong đó có đủ 05 quốc gia Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Tổ chức hiệu quả hoạt động trao đổi đoàn cấp cao với hải quân các nước. Tham vấn, họp nhóm công tác hải quân định kỳ, tổ chức cử tàu thăm và đón các nhóm tàu hải quân các nước để trao đổi chuyên môn y học, hàng hải, thông tin liên lạc, bộ quy tắc cho các cuộc gặp bất ngờ trên biển… Phối hợp tuần tra chung, tuần tra liên hợp; cử đi đào tạo tại Nga, Ấn Độ. Duy trì thông tin liên lạc, xử lý tốt các vụ việc trên biển, đấu tranh chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định. Hợp tác nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh khai thác cảng, logistics, dịch vụ biển; thực hiện các dự án, hợp đồng, hạng mục mua sắm trang bị, chuyển giao công nghệ... Trên bình diện đa phương, QCHQ đã tham gia Hội nghị Tư lệnh Hải quân các nước ASEAN, Hội nghị Hải quân Tây Thái Bình Dương, Hội nghị Sức mạnh Hải quân thế giới, Hội nghị Sức mạnh biển, Hội thảo An ninh hàng hải, Hội nghị tàu ngầm. Đặc biệt, "năm 2020 Hải quân Việt Nam đã chủ trì đăng cai tổ chức thành công Hội nghị Tư lệnh Hải quân các nước ASEAN lần thứ 14 bằng hình thức trực tuyến."(22) Tuy nhiên, công tác phối hợp triển khai một số nhiệm vụ ĐNQP của QCHQ có thời điểm chưa chặt chẽ, chất lượng chưa cao, chưa thật tương xứng với tiềm năng của QCHQ do nguyên nhân chủ yếu nhận thức về vai trò của ĐNQP và rào cản về ngoại ngữ của các lực lượng thực hiện nhiệm vụ. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ ĐNQP của QCHQ trong thời gian tới cần vận dụng linh hoạt, đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, tạo chuyển biến nhận thức cho các tổ chức, lực lượng đối ngoại quốc phòng của Quân chủng Hải quân về tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, Quân đội về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng. V.I.Lênin đã viết: "Việc quần chúng nhận thức được mục đích và nguyên nhân của chiến tranh có một tầm quan trọng to lớn và đó là sự bảo đảm cho thắng lợi."(23) Trước hết, cần tạo chuyển biến nhận thức cho các tổ chức, các lực lượng về nội dung cơ bản của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh; Nghị quyết số 34-NQ/TW ngày 09/01/2023 của Bộ Chính trị về "Một số định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối Đối ngoại Đại hội XIII". Đặc biệt là Nghị quyết số 2662-NQ/QUTW ngày 26/02/2024 của Quân ủy Trung ương về "Hội nhập quốc tế và ĐNQP đến năm 2030 và những năm tiếp theo". Theo đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo; phát huy vai trò tham mưu, hướng dẫn, tổ chức các hoạt động ĐNQP của cơ quan chức năng; đề cao vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác đối ngoại; nắm vững thực trạng ĐNQP và những vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay để có chủ trương, biện pháp phù hợp trong ĐNQP của QCHQ.

Hai là, giữ vững ngọn cờ độc lập, tự chủ; nguyên tắc "dĩ bất biến, ứng vạn biến" trong đối ngoại quốc phòng. Khẳng định nguyên tắc bất di bất dịch là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn."(24) Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng QCHQ vững mạnh toàn diện "Mẫu mực, tiêu biểu". Thấu triệt trường phái ngoại giao "Cây tre Việt Nam"; nhất quán phương châm vừa hợp tác, vừa đấu tranh; kiên định, kiên trì nguyên tắc chiến lược; linh hoạt mềm dẻo về sách lược; xác định rõ nội dung, chương trình, hình thức triển khai các hoạt động ĐNQP bảo đảm linh hoạt, thiết thực, hiệu quả, phù hợp với thực tiễn đất nước, khả năng của QCHQ và đặc điểm của từng đối tác, đối tượng. Nắm vững và thực hiện nhất quán quan điểm: "Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi"(25); nguyên tắc "bốn không" của Việt Nam và phương châm "Tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả"(26) trong ĐNQP.

Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng. Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: "Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế."(27) Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo QCHQ quán triệt, thực hiện đúng đường lối, chủ trương, chính sách ĐNQP của Đảng, Nhà nước. Mọi hoạt động hợp tác quốc tế của Hải quân đều phải đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng. Các cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức, lực lượng Hải quân lãnh đạo, chỉ đạo trước những vấn đề phức tạp, nhạy cảm trên Biển Đông; tiếp tục rà soát hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, quy chế, quy định về quản lý hoạt động ĐNQP. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước với Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao và các lực lượng khác trong triển khai hoạt động đối ngoại Hải quân để tạo sức mạnh tổng hợp, đồng bộ. Nêu cao vai trò, trách nhiệm của cán bộ chủ trì, Phòng Đối ngoại trong tham mưu về quản lý các hoạt động ĐNQP của QCHQ; chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ ĐNQP cho các cơ quan, đơn vị; phối hợp, tổ chức thực hiện, quản lý các hoạt động ĐNQP tại các nước.

Bốn là, đa dạng hóa các nội dung và hình thức đối ngoại quốc phòng của Quân chủng Hải quân. Các tổ chức, lực lượng cần dự kiến được các tình huống đột biến có thể xảy ra làm phương hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc trên hướng biển kịp thời, chính xác, rút ra bản chất, nhanh chóng tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, trực tiếp là Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Hải quân xác định đúng nội dung, hình thức phù hợp. Đa dạng hóa nội dung, hình thức hợp tác trong từng cơ chế đã ký kết; thiết lập thêm các lĩnh vực, cơ chế hợp tác mới về giáo dục - đào tạo, khoa học kỹ thuật, chia sẻ thông tin, cứu hộ cứu nạn, hỗ trợ nhân đạo, y học hải quân, bảo vệ môi trường biển… Mở rộng hợp tác đối tượng hợp tác; tăng cường giao lưu sĩ quan trẻ, mở ra các cấp độ và hình thức quan hệ hợp tác mới. "Tăng cường hợp tác quốc phòng đa phương nhằm góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia."(28) Tiếp tục chuyển mạnh từ "tham dự" sang "chủ động" đóng góp xây dựng, định hình "luật chơi chung", sẵn sàng đảm nhận thành công các hoạt động hợp tác thực chất cùng hải quân các nước. Đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp thông tin, tuyên truyền đối ngoại, bảo đảm nhanh chóng, chính xác, kịp thời định hướng dư luận, tạo hiệu ứng ủng hộ của cộng đồng quốc tế.

4. Kết luận

Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là sự kết tinh trí tuệ, bản lĩnh và tầm nhìn chiến lược, trở thành kim chỉ nam cho ĐNQP. Đối với QCHQ, tư tưởng ấy giúp kiên định mục tiêu bảo vệ độc lập, chủ quyền, đồng thời linh hoạt, sáng tạo trong phương thức hoạt động ĐNQP. Trong bối cảnh Biển Đông phức tạp và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn gia tăng, việc vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh cho phép QCHQ vừa giữ vững chủ quyền, vừa tăng cường hợp tác quốc tế, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình. /.

Trần Văn Rỡ Em

Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

(1), (10), (14), (24) Hồ Chí Minh, Toàn tập (2011), Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 64, 526, 579, 147.

(2), (6), (15) Hồ Chí Minh, Toàn tập (2011), Tập 15, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 84, 618, 321.

(3), (11) Hồ Chí Minh, Toàn tập (2011), Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 262, 383.

(4), (5) Hồ Chí Minh, Toàn tập (2011), Tập 2 Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 269, 130.

(7), (13), (16) Hồ Chí Minh, Toàn tập (2011), Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 555, 555, 274.

(8) Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phòng Phủ Thủ tướng, hồ sơ 1720, Hà Nội, tờ 33

(9), (12), (17), (18), (19) Hồ Chí Minh, Toàn tập (2011), Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 256, 603, 309, 280, 57.

(20), (25), (26), (28) Bộ Quốc phòng (2019), Quốc phòng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 82, 25, 27, 28.

(21) Đảng ủy QCHQ (2023), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 806-NQ/QUTW ngày 31/12/2013 của Quân ủy Trung ương về hội nhập quốc tế và ĐNQP đến năm 2020 và những năm tiếp theo, Lưu hành nội bộ, Hải Phòng, tr. 3.

(22) QCHQ (2022) Báo cáo kết quả công tác Hội nhập quốc tế và ĐNQP giai đoạn 2016-2021, phương hướng đến năm 2025, Lưu hành nội bộ, Hải Phòng, tr. 4.

(23) V.I.Lênin (2005), Toàn tập, Tập 41, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 147.

(27) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 162.