Từ khóa: Văn hóa ứng xử, ứng xử nhân văn, Hồ Chí Minh, thanh niên Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm đến vấn đề xây dựng thể chế chính trị, kinh tế mà còn đặc biệt nhấn mạnh vai trò của văn hóa – trong đó văn hóa ứng xử giữ vị trí then chốt – đối với sự hình thành và phát triển con người mới xã hội chủ nghĩa. Do đó có thể nhận định, Người là hiện thân sinh động của một nền văn hóa ứng xử mang đậm tính nhân văn, dân tộc và thời đại. Nét ứng xử không đơn thuần là phép lịch sự trong giao tiếp, mà là biểu hiện sâu sắc của đạo đức, lòng nhân ái, sự tôn trọng con người và tinh thần vị tha, khoan dung rất riêng, rất Hồ Chí Minh.
Trong bối cảnh hiện nay, trước những tác động mạnh mẽ của thời ký chuyển đổi số, nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự phát triển khoa học, công nghệ ngày càng hiện đại thì đâu đó, trong văn hóa ứng xử của một bộ phận thanh niên Việt Nam có biểu hiện lệch chuẩn, thiếu tinh thần nhân ái, tôn trọng và trách nhiệm trong hành vi. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải giáo dục, hình thành và phát triển một nền văn hóa ứng xử chuẩn mực, nhân văn cho thanh niên – chủ thể đóng vai trò trung tâm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xuất phát từ yêu cầu và thực tiễn đó, bài viết tập trung phân tích những giá trị cốt lõi trong văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh, làm rõ nội dung, những khái cạnh cốt lỗi trong văn hóa ứng xử mà thanh niên có thể học tập và vận dụng vai trò của tư tưởng này như một nền tảng quan trọng cho việc giáo dục và định hình văn hóa ứng xử nhân văn cho thanh niên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
2. Nội dung
2.1. Những vấn đề lý luận chung về văn hóa ứng xử nhân văn Hồ Chí Minh
2.1.1. Khái niệm văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh
* Khái niệm văn hóa ứng xử
Qua nhiều nghiên cứu khác nhau có thể thấy, văn hóa ứng xử là một phạm trù rộng, gắn liền với cách thức con người duy trì, điều chỉnh hành vi trong các mối quan hệ xã hội. Theo GS.TS Đỗ Long, "Văn hóa ứng xử là hệ thống thái độ và hành vi được xác định để xử lý mối quan hệ giữa người với người trên các căn cứ pháp lý và đạo lý nhằm thúc đẩy nhanh sự phát triển của cộng đồng, của xã hội" [4, tr.73]; Trong công trình nghiên cứu "Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi trường thiên nhiên", 2002, tác giả Nguyễn Viết Chức (chủ biên) cho rằng, văn hóa ứng xử bao gồm những cách thức quan hệ, thái độ và hành động của con người không chỉ đối với người khác mà còn đối với xã hội và môi trường thiên nhiên. [1, tr.27]. Từ các quan niệm trên, có thể khái quát rằng: văn hóa ứng xử là hệ thống chuẩn mực, khuôn mẫu hành vi và thái độ thể hiện trong mối quan hệ giữa con người với con người, với xã hội và với môi trường sống. Những chuẩn mực này được hình thành trong tiến trình phát triển lịch sử – văn hóa của cộng đồng, được xã hội thừa nhận, chuẩn hóa và tiếp nhận như những giá trị đạo lý và ứng xử phù hợp với bản sắc dân tộc.
* Khái niệm văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh
Văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh được hình thành trên nền tảng kế thừa sâu sắc những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Xuất thân từ gia đình nhà Nho, Người sớm tiếp cận và trân trọng các giá trị tích cực của nó, đặc biệt là tư tưởng "lấy dân làm gốc" và hệ thống "ngũ tri" (tri kỷ, tri bỉ, tri thời, tri chỉ, tri biến) – những yếu tố được vận dụng linh hoạt, thấm đẫm trong các ứng xử thực tiễn. Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng tiếp thu lý tưởng "Tự do – Bình đẳng – Bác ái" của Pháp, từ đó kết hợp hài hòa giữa Đông – Tây, cổ truyền – hiện đại. Sự hội tụ này tạo nên một phong cách ứng xử nhân văn, rất linh hoạt vì gắn với lý tưởng cách mạng, thể hiện rõ bản lĩnh, trình độ và nhân cách văn hóa của Người trong suốt sự nghiệp hoạt động.
Như vậy, văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh là hệ thống hành vi của Người nhằm thực hiện các khuôn mẫu mang tính lý tưởng kết tinh những giá trị và chuẩn mực của xã hội và cộng đồng mà Người hướng tới. Văn hóa ứng xử của Hồ Chí Minh thể hiện nhân cách và bản lĩnh của Người trong hoạt động thực tiễn, gắn liền với trình độ văn hóa mà người đã tích lũy được và sử dụng nó trong các tình huống giao tiếp. Ứng xử là biểu hiện tổng hợp của văn hóa, qua ứng xử người ta thấy ngay tầm văn hóa ứng xử của Người và dân tộc. Văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh thể hiện hết sức đa dạng, phong phú và sâu sắc của Người đối với thiên nhiên, với con người (đồng chí, đồng bào, quốc tế…) và với chính mình. [3, tr.15-16]
2.1.2. Những biểu hiện của văn hóa ứng xử nhân văn theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần được phát triển ở thanh niên
* Ứng xử với mình. Văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh với bản thân thể hiện một quá trình tự rèn luyện nghiêm khắc, kiên trì và nhất quán suốt cuộc đời. Người luôn xác định rõ mục đích sống của mình là "phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân" và lấy đó làm kim chỉ nam cho cuộc đời cách mạng của mình.
Phong cách ứng xử với bản thân của Hồ Chí Minh thể hiện rõ qua việc thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Sống có lý tưởng, xác định rõ mục tiêu cuộc đời, nhiều lần Người khẳng định mục đích sống của mình là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân. Người còn là một tấm gương mẫu mực nhất quán giữa lời nói và hành động đó là sự khiêm tốn, cầu thị, biết tự đánh giá bản thân. Xuất phát từ lý tưởng ấy, thanh niên Việt Nam nên nhớ sự định hướng về các đức tính tốt của con người như: "Khiêm tốn là nền tảng đạo đức của cả dân tộc Việt Nam. Đối với bản thân thì bao giờ cũng nhìn ra điều kém cỏi của mình. Đối với đồng chí và bạn bè thì ai cũng là thầy học của mình, tìm cho được điều mình phải học tập". [14]
Đây không chỉ là phẩm chất đạo đức mà còn là nền tảng văn hóa và nguyên tắc sống. Người từng khẳng định: "Một dân tộc biết cần, kiệm, liêm, chính là một dân tộc giàu mạnh, văn minh, tiến bộ." Với lối sống giản dị, khiêm tốn và không tự cao, tự đại, xem mình là quan trọng nhất nên trong bài viết "Chớ kiêu ngạo, phải khiêm tốn" đăng trên Báo Nhân Dân số 194 (13–15/6/1954), Bác viết: "Chúng ta phải tuyệt đối chống bệnh kiêu ngạo, phải luôn luôn khiêm tốn. Mọi công tác phải dựa hẳn vào quần chúng, hoan nghênh quần chúng đôn đốc và kiểm tra. Trong đoàn thể thì phải giữ vững dân chủ tập trung, tập thể lãnh đạo, phải mở rộng tự phê bình và phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên trên. Có như vậy mới tiến bộ chung, tiến bộ mãi", [5, tr.507]. Có thể nói, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hóa ứng xử với bản thân mang tính nhân văn sâu sắc, thể hiện ở quá trình tự mình bồi dưỡng mình, tự giáo dục, tự hoàn thiện một cách nghiêm khắc, kiên trì và suốt đời. Đồng thời, Người luôn luôn ý thức rõ vai trò và trách nhiệm của cá nhân đối với cộng đồng, quốc gia dân tộc và xem sự rèn luyện bản thân là một phần không thể thiếu của người cách mạng.
Người không chỉ tạo nên một hình mẫu đạo đức mà còn góp phần truyền cảm hứng cho các thế hệ thanh niên noi theo, tự hoàn thiện bản thân, sống trách nhiệm và nhân văn hơn trong xã hội hiện đại.
* Ứng xử với người. Biểu hiện trong văn hóa ứng xử của Chủ tịch Hồ Chí Minh với người được thể hiện với đồng chí, đồng bào; ứng xử với người có khuyết điểm – lầm đường, lạc lối; ứng xử với kẻ thù; ứng xử với thanh niên tri thức.
Quan tâm sâu sắc đến nhân dân nên luôn nêu cao qua quan điểm "lấy dân làm gốc", luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, xem nhân dân là chủ thể tối cao trong sự nghiệp cách mạng. Người từng khẳng định: "Nếu nước được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì" [5, tr.64]. Bởi vì, độc lập dân tộc phải gắn liền với đời sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân – đây cũng chính là lý do để Bác ra đi tìm lý tưởng mới cho dân tộc. Những điều Người lo cho dân là những điều giản dị nhất: "Một là, làm cho dân có ăn. Hai là, làm cho dân có mặc. Ba là, làm cho dân có chỗ ở. Bốn là, làm cho dân được học hành" [5, tr.175]. Tình yêu thương, sự bao dung và nhân ái trong ứng xử với người khác đã trở thành một đặc điểm nổi bật trong nhân cách văn hóa Hồ Chí Minh. Định hướng quan trọng mà thanh niên Việt Nam nên học tập đó là, trong bài viết "Sao cho được lòng dân" đăng trên Báo Cứu quốc, số 65, ngày 12/10/1945, Người dạy "Ngoài ra, đối với tất cả mọi người trong các tầng lớp dân chúng, ta phải có một thái độ mềm dẻo khôn khéo, biết nhân nhượng, biết trọng nhân cách người ta. Phải tỏ cho mọi người biết rằng công việc là công việc chung, thiếu người ra gánh vác thì mình ra, nếu có người thay, mình sẽ nghỉ để làm việc khác, sẵn sàng nhường lại cho ai muốn làm và làm được" tất cả vì mục tiêu lợi ích của tổ quốc và nhân dân.
Đối với những người có lỗi, có khuyết điểm, Người dạy: "Đối với người phải khoan dung, độ lượng". Với đồng bào, dù là người có tư tưởng khác biệt hay từng "lầm đường lạc lối", Người vẫn lấy tình thân ái để cảm hóa họ. Người từng nói: "Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ." [5, tr.280]. Với quan điểm ấy, Hồ Chí Minh luôn đề cao tinh thần đoàn kết dân tộc, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, địa vị xã hội. Đồng thời, sự khoan dung đại độ, sự nhân ái trong ứng xử còn thể hiện rõ trong thái độ của Người đối với tôn giáo và cả với kẻ thù. Cho thấy tư duy nhân văn sâu sắc, tôn trọng sự khác biệt và đề cao tinh thần đoàn kết. Bác luôn tôn trọng tự do tín ngưỡng và thể hiện tinh thần đối thoại, hòa giải với các tôn giáo khác nhau.
Tinh thần khoan dung, nhân ái trong văn hóa ứng xử của Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở lý tưởng đạo đức, mà còn được Người thể hiện trong từng hành vi cụ thể, kể cả với những người từng đi ngược lại lợi ích dân tộc. Không dùng hận thù để đối đãi mà luôn hướng tới sự cảm hóa bằng tình người. Quan điểm "lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo" được kế thừa từ truyền thống dân tộc và vận dụng triệt để trong thực tiễn cách mạng. Tuy vậy, dù luôn mở rộng lòng mình để dẫn dắt, cảm hóa, tạo cơ hội sửa chữa cho người khác không đồng nghĩa luôn nhân nhượng, thỏa hiệp với cái sai, cái xấu nhưng luôn rộng đường cho họ con đường quay về cái thiện.
Đặc biệt, cách ứng xử đầy tình người của Hồ Chí Minh với là sự đối xử nhân đạo với kẻ thù. Chỉ thị đối xử nhân đạo với tù binh Pháp, thậm chí còn cấp cho họ thức ăn, nước uống cao hơn tiêu chuẩn của bộ đội Việt Minh. Trong một lần thăm trại tù binh Pháp, thấy một đại úy quân y rét run vì không có áo, Người đã cởi áo đang mặc tặng cho anh ta. Trong thư "Gửi đồng bào Việt Nam, người Pháp và người thế giới", đăng trên Báo Cứu quốc, 1946 Người viết: "trước lòng bác ái, thì máu Pháp hay máu Việt cũng đều là máu, người Pháp hay người Việt cũng đều là người" và "Máu Việt Nam và máu Pháp đổ đã nhiều rồi. Không nên đổ nữa. Vì lý lẽ gì, vì lợi của ai, mà đem máu quý báu của thanh niên Pháp (một thanh niên đầy những tương lai vẻ vang) đổ trên non nước Việt Nam. Người Việt và người Pháp cùng tin tưởng vào đạo đức: Tự do, Bình đẳng, Bác ái, Độc lập". Tinh thần khoan dung ấy không chỉ lan tỏa trong nước mà còn chạm tới trái tim bạn bè quốc tế lúc bấy giờ, làm nên một phong cách ứng xử Hồ Chí Minh thấm đượm giá trị nhân văn, trường tồn cùng thời đại.
Từ cách ứng xử với nhân dân, với tôn giáo, với người đối lập và với kẻ thù, có thể khẳng định rằng: Hồ Chí Minh đã hiện thực hóa chữ "tình người" – nền tảng nhân văn trong văn hóa ứng xử – thành một thực tiễn sống động. Đó không chỉ là phong cách của một nhà lãnh đạo, mà còn là biểu hiện cao đẹp của văn hóa ứng xử mang tầm thời đại.
* Ứng xử với công việc – Mẫu mực của tinh thần cách mạng và đạo đức lao động. Một trong những biểu hiện nổi bật chính là cách Người thực hiện công việc rất trách nhiệm, khoa học và nhân văn. Xem lao động và cống hiến là lẽ sống cao đẹp, thể hiện sâu sắc tinh thần "nhiệt tình cách mạng", với Người, chỉ khi người cán bộ thực sự có lý tưởng, tâm huyết với sự nghiệp cách mạng thì mới đủ sức gánh vác trách nhiệm lớn lao trước Đảng và nhân dân. Người dạy: "Thanh niên cần phải có chí tự động, tự cường, tự lập. Phải có khí khái ham làm việc, chứ không ham địa vị. Phải có quyết tâm, đã làm việc gì thì làm cho đến nơi đến chốn, làm cho kỳ được" [5, tr.464]. Đó không chỉ là lời răn, mà còn là phương châm hành động xuyên suốt trong cuộc đời cách mạng của Người. Trong bài, Kỉ niệm Lênin, qua những lời Người ca ngợi Lênin cũng chính là sự phản ánh thế giới quan "Đối với công việc, phải thấy trước, lo trước, tính trước. Phải cân nhắc kỹ những điều thuận lợi và khó khăn, để kiên quyết vượt qua mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi. Bất kỳ việc to việc nhỏ, đều phải rất cẩn thận, không hấp tấp, không rụt rè. Bại không nản, thắng không kiêu. Tuyệt đối tránh chủ quan, nông nổi". [5, tr.12]. Cách làm việc luôn khoa học, chặt chẽ, thể hiện ở việc nắm chắc thực tiễn, chuẩn bị kỹ lưỡng, biết sắp xếp thời gian hợp lý và chú trọng hiệu quả công việc chứ không hình thức, qua loa, đối phó. Đồng thời, yếu tố nhân văn được thể hiện qua việc luôn tôn trọng ý kiến tập thể, khơi dậy sự sáng tạo của cấp dưới và xử lý công việc bằng tình cảm, sự bao dung, thấu hiểu. Chính sự hòa quyện giữa trách nhiệm cao, tư duy khoa học và tấm lòng nhân hậu đã tạo nên một phong cách làm việc đặc biệt – một mẫu mực để cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ học tập, noi theo.
Ở Hồ Chí Minh, trong công việc, dù là lãnh tụ và luôn được đồng chí và nhân dân ủng hộ nhưng Người không bao giờ lạm dụng quyền lực hay áp đặt ý kiến cá nhân. Ngược lại, luôn lắng nghe, tôn trọng tập thể, giải quyết hài hòa mối quan hệ với đồng chí, cấp dưới và quần chúng nhân dân. Phong cách làm việc thể hiện sự kết hợp giữa nguyên tắc, hiệu quả và lòng nhân ái. Chính điều này tạo nên một hình mẫu ứng xử lao động kiểu mẫu, có sức cảm hóa không chỉ về mặt lý trí mà còn chạm tới cảm xúc con người.
* Ứng xử với thiên nhiên – Triết lý sống hài hòa và nhân văn. Một nét đặc sắc trong văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh là tình yêu sâu sắc và triết lý sống hài hòa với thiên nhiên. Dù bận rộn trăm công nghìn việc, Người vẫn giữ cho mình sự gắn bó mật thiết với cỏ cây, hoa lá, núi rừng của thiên nhiên. Người từng bày tỏ mong ước giản dị: "Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi." [5, tr.187]. Dù mong ước đó không thành hiện thực, Người vẫn cố gắng sống chan hòa với thiên nhiên trong ngôi nhà sàn đơn sơ giữa khuôn viên Phủ Chủ tịch, nơi có ao cá, hàng cau, giàn hoa và một vài cây trái trong vườn.
Hồ Chí Minh là một trong số các vị lãnh tụ đề cặp đến tết trồng cây:"Mùa xuân là Tết trồng cây, Làm cho đất nước càng ngày càng Xuân". Đó không chỉ là hành động sinh thái, mà còn là biểu hiện sâu sắc của văn hóa ứng xử nhân văn, sinh thái học. Ngay cả trong Di chúc, Người vẫn thể hiện mong mướn được sống hòa mình với tự nhiên. Người đề nghị hỏa táng, đem tro chôn ở một quả đồi và trồng cây nơi đó để nhân dân viếng thăm có chỗ nghỉ ngơi, vừa tiện lợi, vừa hợp vệ sinh, lại vẫn gắn bó với thiên nhiên đến tận phút cuối đời. Đó là sự kết hợp tuyệt vời giữa lối sống thanh cao, giản dị, yêu thiên nhiên và tinh thần nhân văn sâu sắc, khiến văn hóa ứng xử của Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng sống mãi với thời đại.
Như vậy, khi phân tích những nội dung thể hiện văn hóa ứng xử nhân văn của Hồ Chí Minh sẽ nhận thấy có rất nhiều điểm tích cực và có tính định hướng cho thanh niên Việt Nam ứng dụng học tập trong thời kỳ đất nước đang vươn mình hội nhập, phát triển, rất cần những người vừa có tài, có đức và có lối ứng xử nhân văn.
2.2. Thực tiễn xây dựng văn hóa ứng xử nhân văn cho thanh niên Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
2.2.1. Sự cần thiết của việc vận dụng văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh đối với thanh niên Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh đất nước ta đang hội nhập sâu rộng với thế giới, việc vận dụng văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh vào đời sống thanh niên Việt Nam là hết sức cần thiết và phù hợp bởi vì đây không chỉ là kim chỉ nam định hướng hành vi cá nhân mà còn là nền tảng để kiến tạo một xã hội văn minh, đoàn kết và nghĩa tình. Thanh niên – với vai trò là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc – cần được định hướng bởi những giá trị ứng xử chuẩn mực để phát triển toàn diện về nhân cách, tư duy và hành động. Việc vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong đời sống hằng ngày sẽ giúp thanh niên rèn luyện khả năng tự nhận thức, kiểm soát cảm xúc, thấu hiểu người khác và ứng xử linh hoạt trong các tình huống xã hội.
Hiện nay, trong môi trường chịu nhiều tác động từ mạng xã hội, các xu hướng văn hóa ngoại lai và lối sống thực dụng, nhiều bạn trẻ dễ rơi vào trạng thái khủng hoảng giá trị sống, thiếu phương hướng và dễ bị lôi cuốn vào những hành vi lệch chuẩn. Những biểu hiện như phát ngôn thiếu kiểm soát, ứng xử thiếu văn hóa, thiếu trách nhiệm với cộng đồng,... đang ngày càng phổ biến. Trong bối cảnh đó, văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh đóng vai trò như một "phanh hãm" cần thiết, giúp thanh niên điều chỉnh hành vi, xây dựng lối sống tích cực, có trách nhiệm với bản thân và xã hội.
Ngoài ra, vận dụng văn hóa ứng xử của Hồ Chí Minh còn góp phần hình thành các chuẩn mực ứng xử mới trong môi trường số, nơi mà thanh niên cần biết cách kết nối văn minh, phản biện có văn hóa, lan tỏa năng lượng tích cực thay vì sa vào những tranh luận tiêu cực hay bắt chước những hành vi phản cảm. Văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh – với cốt lõi là lòng yêu thương, tôn trọng và trách nhiệm – sẽ tiếp thêm nền tảng đạo đức vững chắc để thanh niên hội nhập sâu nhưng không hòa tan, tiếp thu chọn lọc mà không đánh mất bản sắc.
Có thể khẳng định rằng, trong sự phát triển nhanh chóng của xã hội hiện đại, việc vận dụng văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh không chỉ là một yêu cầu lý luận mà còn là một giải pháp thực tiễn cấp thiết, có ý nghĩa lâu dài trong giáo dục đạo đức, hình thành nhân cách và phát huy vai trò của thanh niên Việt Nam trong thời đại hội nhập quốc tế hiện nay.
Trong thời gian qua, Đảng và nhà nước đã có nhiều quan tâm và định hướng cụ thể cho việc học tập và làm theo tấm gương sáng của Hồ Chí Minh như Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 khóa X, Đảng ta khẳng định: "Xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam giàu lòng yêu nước; tự cường dân tộc; kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội". Với mục tiêu phấn đấu: "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" thì việc bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho tuổi trẻ Việt Nam là nhiệm vụ cấp thiết nhất. Để họ có được định hướng cho sự phát triển bản thân đúng với lý tưởng cách mạng, đúng với hệ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh. Tại phiên khai mạc Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyên Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định thêm, "Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân và khát vọng đất nước phồn vinh, hạnh phúc"; Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành Chỉ thị số 42-CT/TW, ngày 24/3/2015 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015 – 2030;… và nhiều chủ trương, cách làm khác đạt hiệu quả tích cực trong thời gian qua. Vì thế, trong thời gian tới nên lồng ghép và đẩy mạnh hơn nữa hoạt động này ở nhiều khía cạnh khác nhau trong đó cần nâng cao hiệu quả vận dụng văn hóa ứng xử nhân văn Hồ Chí Minh đề rèn luyện và phát huy vai trò của thanh niên Việt Nam.
2.2.2. Kiến nghị nâng cao hiệu quả vận dụng văn hóa ứng xử nhân văn Hồ Chí Minh trong thanh niên
Một là, cần đưa nội dung giáo dục văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh vào trong chương trình giảng dạy chính khóa và ngoại khóa ở các cấp học, đặc biệt là bậc cao đẳng, đại học – nơi đào tạo đội ngũ trí thức trẻ. Việc làm này sẽ giúp thanh niên hình thành nhân cách ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Ngoài ra, các môn học có thể lồng ghép nội dung này trong chương trình giảng dạy, không chỉ qua lý thuyết mà còn qua các bài tập, dự án thực tiễn. Có thể tổ chức các hoạt động ngoại khóa như: các cuộc thi, chương trình giao lưu, chia sẻ về tư tưởng Hồ Chí Minh, giúp thanh niên dễ dàng tiếp thu và áp dụng vào cuộc sống.
Hai là, cần xây dựng và phát triển các hoạt động trải nghiệm, sinh hoạt chuyên đề, các buổi tọa đàm, hội thảo chuyên sâu để thanh niên có cơ hội tiếp cận sâu sắc và thực hành văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh trong môi trường học đường và cộng đồng. Các hoạt động này không chỉ là cơ hội để thanh niên học hỏi mà còn giúp họ trải nghiệm trực tiếp những giá trị sống qua các tình huống thực tế. Có thể mời các chuyên gia, nhà nghiên cứu và những tấm gương thanh niên tiêu biểu để chia sẻ và trao đổi, qua đó phát huy năng lực ứng xử văn hóa trong cuộc sống hàng ngày cho thanh niên.
Ba là, phát huy vai trò của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên trong việc giáo dục văn hóa ứng xử cho thanh niên thông qua các phong trào tình nguyện, câu lạc bộ kỹ năng mềm, chương trình "Tuổi trẻ làm theo lời Bác". Các phong trào này cần được triển khai rộng khắp, không chỉ giới hạn ở các sự kiện lớn mà còn phải gắn với các hoạt động thường xuyên để từ đó khuyến khích thanh niên hành động theo tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong mọi tình huống. Đoàn, Hội cũng cần khuyến khích thanh niên tham gia các hoạt động cộng đồng, qua đó thực hành những giá trị nhân văn của Người.
Bốn là, cần tích cực tuyên truyền trong nhân dân để lan tỏa các giá trị văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh qua các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, phim ảnh, mạng xã hội,… giúp thanh niên dễ tiếp cận và noi theo.
Năm là, bản thân mỗi thanh niên cần xác định rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong việc xây dựng lối sống văn hóa, tích cực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Nên tự đặt ra mục tiêu và rèn luyện bản thân để trở thành hình mẫu về văn hóa ứng xử nhân văn. Đồng thời, mỗi thanh niên cần trở thành những hạt nhân tích cực trong việc lan tỏa các giá trị này đến cộng đồng, giúp tạo dựng một môi trường xã hội văn minh, nhân ái, giàu lòng nhân ái và trách nhiệm.
Sáu là, gia đình và cộng đồng cần đóng vai trò tích cực trong việc giáo dục thanh niên về văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh. Việc phối hợp giữa gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội trong giáo dục sẽ giúp thanh niên hình thành nhân cách vững chắc, có bản lĩnh và trách nhiệm.
Bảy là, cần chú trọng đến phát triển các sản phẩm sáng tạo từ thanh niên trong việc ứng dụng văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh vào thực tiễn đời sống. Các cuộc thi sáng tạo, nghiên cứu khoa học, hay các đề tài về văn hóa ứng xử có thể khuyến khích thanh niên tìm ra những cách thức hiện đại để vận dụng các giá trị này vào công việc, học tập, và đời sống. Những ý tưởng sáng tạo này sẽ không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân thanh niên mà còn góp phần làm phong phú thêm nguồn tài liệu nghiên cứu, giáo dục về văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh.
3. Kết luận
Văn hóa ứng xử là một bộ phận cấu thành nên mỗi cá nhân, tập thể và xã hội. Đặc biệt, ở Việt Nam, văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh như là một khuôn mẫu trong cách ứng xử mà mọi người cần phải học tập và noi theo, trong đó có thanh niên. Với sự phát triển của xã hội, văn hóa ứng xử đã có sự thay đổi nhiều theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực. Mỗi thanh niên cần nhận thức đúng đắn về văn hóa ứng xử nói chung và văn hóa ứng xử trong trường hội nhập nhằm tạo nên lối ứng xử có văn hóa, luôn là những thanh niên giàu bản lĩnh, trí tuệ và văn minh. Xã hội ngày càng hiện đại và xu thế toàn cầu hóa vừa mang lại cơ hội cho sự phát triển nhanh chóng của đất nước nhưng đồng thời cũng là bài học sâu sắc về sự đi xuống văn hóa trong đó có văn hóa ứng xử. Giữ gìn những nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc là nền tảng vững chắc để duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội trong đó thanh niên là một trong những bộ phận quan trọng nhất, là cầu nối giữa Việt Nam với thế giới.
ThS. Lê Anh Thi
Giảng viên Khoa Giáo dục Chính trị - Trường Đại học Đồng Tháp
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn, V. C. (Chủ biên). (2002). Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi trường thiên nhiên. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
2. Bính, T. V. (2011). Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và giáo dục đạo đức cách mạng. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
3. Cao, T. H. Y. (2017). Văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh (tr. 15–16). Hà Nội: NXB Thanh Niên.
4. Đỗ, L. (2008). Tâm lý học với văn hóa ứng xử. Hà Nội: NXB Văn hóa Thông tin.
5. Hồ Chí Minh. (2011). Toàn tập (Tập 4, 5, 6, 8, 15). Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
6. Lê, N. H. (2002). Văn hóa ứng xử của các dân tộc Việt Nam. Hà Nội: NXB Văn hóa Thông tin. 7. Nguyễn, T. T. (2020). Văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh trong giao tiếp với nhân dân. Tạp chí Lý luận Chính trị, (5).
8. Nhiều tác giả. (2009). Hồ Chí Minh – Nhà văn hóa của tương lai. Hà Nội: NXB Thanh Niên.
9. Song, T. (1999). Nhà văn hóa kiệt xuất. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia. 10. https://thvothithua.hcm.edu.vn/xay-dung-dang/bai-viet-hoc-bac-ho-ve-duc-tinh-khiem-ton-tac-gia-truc-giang-dang-tren-so-tay-x