
Ốc đảo thanh bình giữa những nương chè xanh ngát
Bắt đầu xây dựng từ năm 2003, giữa một vùng đất cằn cỗi chỉ toàn cỏ cây hoang dại, đến nay, khu bảo tồn làng nhà sàn du lịch sinh thái Thái Hải – nơi được biết tới với tên gọi thân thương: Làng Thái Hải – đã trở thành một không gian sinh thái tràn đầy sức sống.

Trong ngôi làng này hiện đã có 30 căn nhà sàn cổ tuổi đời cả trăm năm, cùng với hơn 200 cư dân, có những ao cá trong veo, những nương chè đâm chồi nảy lộc, những ruộng lúa, vườn rau xanh mướt và cả những đàn gia súc thảnh thơi…
Giữa những bộn bề và khói bụi nơi phố thị, làng Thái Hải được ví như một ốc đảo thanh bình, nơi môi trường và nhiệt độ được điều hòa bởi cây xanh, hồ nước. Mùa hè, ngôi làng có gió mát tự nhiên, làm cái nóng bớt nhiều phần gắt gỏng; mùa đông, những tán cây che chắn cho ngôi làng khỏi những cơn gió bấc, bên bếp lửa hồng, cái ấm nồng của một chốn an nhiên càng trở nên rõ rệt.

Người dân trong làng, chủ yếu là dân tộc Tày, Nùng, đều sinh sống theo hình thức tự cung tự cấp. Họ trồng rau, cấy lúa, nuôi cá, chăn thả gia súc, sản xuất nước uống đóng chai, trồng và chế biến chè xanh, nấu rượu… như thói quen từ hàng ngàn đời nay của dân tộc mình. Ở đây, không ai nói về chuyện organic, bởi chính việc quay trở lại với phương thức sản xuất cổ xưa đã là một cuộc cách mạng, mang lại nguồn thực phẩm sạch, bền vững và đảm bảo sinh thái.
Ngôi làng hạnh phúc: Cơm chung nồi, tiền chung túi
Ở làng Thái Hải (thuộc xóm Mỹ Hào, xã Thịnh Đức) có khoảng 200 người dân cùng sinh sống. Dân làng ăn chung, dùng đồ chung, nhà ai kiếm được tiền cũng góp chung vào quỹ làng, không ai giàu có hơn ai, không ai tị nạnh ai. Tất cả cùng đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ nhau mỗi ngày.

Người lập ra ngôi làng này, bà Nguyễn Thị Thanh Hải, đã đề ra một “luật lệ” thú vị: Mỗi người chỉ làm việc mình giỏi nhất, ai giỏi chăn nuôi thì chỉ chăn nuôi, ai giỏi làm thuốc thì chỉ làm thuốc chữa bệnh cho cả làng, ai giỏi giao tiếp thì đón tiếp khách du lịch…

Mỗi ngày, từ 5h, tiếng mõ vang vọng gọi cả làng thức giấc, bắt đầu một ngày mới với đúng công việc của mình. Đàn ông cời bếp, thổi lửa, mài dao, phụ nữ ra giếng làng lấy nước, đun nước pha trà. Sau khi cùng nhau ăn sáng, mọi người tỏa đi làm công việc của mình. Có người đi lấy củi, trồng rau, chăn nuôi gà heo, người đánh bắt cá, người đón tiếp khách tham quan, trẻ nhỏ đến lớp học.

Số tiền kiếm được của mỗi người từ việc buôn bán nông sản, đón tiếp khách du lịch… đều được tự nguyện nộp vào quỹ chung của cả làng. Các chi tiêu, nhu cầu sinh hoạt từ riêng tư đến thiết yếu của mỗi gia đình, từ ăn uống sinh hoạt, đến chữa bệnh, vui chơi, đi học đều được lo liệu từ nguồn này. Thậm chí, dân làng đi lại cũng là xe chung.

Những ngày sống trong làng, du khách có thể cùng bà con trồng rau, hái chè, dựng nhà sàn, thả lưới bắt cá, múa chày giã cốm hay tham gia vào các nghi lễ, tập tục văn hóa như mừng mùa mới, lễ xuống đồng… để thật sự hòa mình vào đời sống của người dân bản địa. Những món ngon độc đáo được chế biến hoàn toàn từ thực phẩm tự cung tự cấp trong làng như khâu nhục, lợn quay, canh gà nấu mẻ, mầm lạc, sâu chít… cũng là những ấn tượng khó phai trong long du khách.

Những tập quán sinh hoạt được gìn giữ, nét văn hóa dân tộc đặc sắc được phát huy và không gian thanh bình, cuộc sống tĩnh tại, không bon chen, không lo âu nơi đây chính là điểm làm nên “tinh thần” riêng có của ngôi làng này, và cũng là điều hấp dẫn nhất với khách du lịch trong và ngoài nước, đặc biệt trong bối cảnh hiện đại, khi những gắn kết giữa con người – con người và con người – thiên nhiên đều trở thành xa xỉ.
Trang Đào