Bắc Ninh nỗ lực vì mục tiêu giảm nghèo bền vững

Thứ sáu, 01/08/2025 - 13:40

Xác định công tác giảm nghèo là nhiệm vụ chính trị quan trọng, liên quan trực tiếp đến đời sống người dân, nhất là nhóm yếu thế, trong nhiều năm qua, tỉnh Bắc Ninh đã thực bộ nhiều giải pháp, chính sách đặc thù để giúp người nghèo từng bước cải thiện cuộc sống, ngày càng tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ xã hội cơ bản.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Thực hiện các văn bản chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương, cấp ủy, chính quyền các cấp của hai tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Bắc Giang trước khi sáp nhập đã kịp thời ban hành đầy đủ các văn bản triển khai thực hiện trên địa bàn, cụ thể là: Nghị quyết số 08/2022/NQ-HĐND ngày 12/7/2023 ban hành Quy định nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn ngân sách nhà nước thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2021-2025; Nghị quyết số 48/2022/NQ-HĐND ngày 09/12/2022 Quy định một số nội dung thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 tỉnh Bắc Giang; Nghị quyết số 41/2022/NQ-HĐND ngày 09/12/2022 của HĐND tỉnh Quy định hồ sơ, trình tự, thủ tục thực hiện một số nội dung hỗ trợ phát triển sản xuất thuộc các Chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, giai đoạn 2021-2025; Quyết định số 15/2023/QĐ-UBND ngày 08/6/2023 của UBND tỉnh về cơ chế quay vòng một phần vốn hỗ trợ bằng tiền hoặc hiện vật để luân chuyển trong cộng đồng các Chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn tỉnh Bắc Giang; Nghị quyết số 13/2021/NQ-HĐND ngày 08/12/2021 của HĐND tỉnh quy định mức chuẩn trợ giúp xã hội; mức trợ cấp xã hội; hỗ trợ kinh phí tham gia BHYT đối với người mắc bệnh hiểm nghèo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Trong đó nâng mức chuẩn trợ giúp xã hội từ 360.000 đồng/tháng lên 440.000 đồng/tháng; Nghị quyết số 06/2022/NQ- HĐND ngày 15/6/2022 của HĐND tỉnh Bắc Ninh về việc nâng mức quà tặng đối với người có công với cách mạng, hộ nghèo và các đối tượng được tặng quà bằng hiện vật theo Nghị quyết số 153/2018/NQ-HĐND ngày 06/12/2018; Nghị quyết số 10/2022/NQ-HĐND ngày 26/8/2022 của HĐND tỉnh Bắc Ninh về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 06/2022/NQ-HĐND ngày 15/6/2022 (thực hiện trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cũ).

Trên cơ sở đó, các sở, ban, ngành, đoàn thể và UBND các cấp của tỉnh Bắc Ninh (cũ) và Bắc Giang (cũ) đã xây dựng Chương trình, kế hoạch cụ thể hóa, triển khai thực hiện các nhiệm vụ được quy định tại các Nghị quyết, Chương trình, Kế hoạch của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, UBND tỉnh. Các sở, ban, ngành cấp tỉnh, các cơ quan thường trực Chương trình mục tiêu quốc gia, UBND các huyện, thị xã, thành phố (trước khi sáp nhập) và các đơn vị có liên quan đã trao đổi, phối hợp, hỗ trợ trong quá trình thực hiện nhằm kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc hoặc đề xuất biện pháp giải quyết với cấp trên đối với những vấn đề vượt thẩm quyền. UBND tỉnh giao trách nhiệm cụ thể cho các ngành chủ trì thực hiện các dự án, tiểu dự án thành phần thực hiện Chương trình; phân công nhiệm vụ cho các sở, ban, ngành cấp tỉnh hỗ trợ, đỡ đầu cho các xã đặc biệt khó khăn, các xã phấn đấu nông thôn mới, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các huyện (trước khi sáp nhập), các xã vươn lên thoát nghèo.

Nguồn vốn ngân sách trung ương, ngân sách địa phương thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 và hàng năm của tỉnh Bắc Ninh đã được triển khai kịp thời, đảm bảo các tiêu chí, nguyên tắc phân bổ theo quy định của Nghị quyết HĐND tỉnh. Tổng kinh phí giai đoạn 2021 - 2025 là 950.488 triệu đồng, trong đó: ngân sách trung ương là 798.504 triệu đồng (trong đó: vốn đầu tư: 368.908 triệu đồng; vốn sự nghiệp: 429.596 triệu đồng); ngân sách tỉnh là 151.984 triệu đồng. Nguồn vốn được phân bổ và sử dụng hiệu quả, đảm bảo bố trí có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải, công khai, minh bạch; lồng ghép sử dụng có hiệu quả các nguồn lực hỗ trợ từ ngân sách của Nhà nước và các nguồn lực khác; việc huy động, đóng góp của người dân được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bàn bạc dân chủ.

Với nguồn vốn được đầu tư, trong giai đoạn 2021-2025, tỉnh Bắc Ninh đã tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu, phục vụ dân sinh, sản xuất, lưu thông hàng hóa, qua đó hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân những vùng nghèo, vùng khó khăn. Cụ thể, tỉnh đã đầu tư xây dựng 05 dự án thuộc lĩnh vực giao thông, 04 dự án lĩnh vực y tế; duy tu sửa chữa 44 công trình đường giao thông liên thôn, sửa chữa trạm bơm, cứng hóa kênh mương (trong đó có 07 công trình cải tạo, nâng cấp và 37 công trình duy tu, sửa chữa). Đồng thời, hỗ trợ cải tạo, nâng cấp 02 tuyến đường giao thông liên xã, đó là tuyến đường liên xã An Bá - Tuấn Đạo - Thanh Luận và tuyến đường liên xã An Bá - Tuấn Đạo, huyện Sơn Động cũ.

Các tuyến đường liên xã, liên thôn được mở rộng, giúp người dân thuận tiện trong lưu thông, giao thương, tiếp cận thị trường, phát triển các mô hình kinh tế. Việc đầu tư các công trình thủy lợi, cấp nước sạch đã góp phần đảm bảo an ninh nguồn nước, phục vụ canh tác và sinh hoạt, cải thiện sức khỏe cộng đồng. Trường học, trạm y tế được xây mới, sửa chữa giúp nâng cao chất lượng giáo dục và chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân, nhất là phụ nữ, trẻ em và người già.

Kết quả đáng ghi nhận trong công tác giảm nghèo ở tỉnh Bắc Ninh thời gian qua là các hộ nghèo, cận nghèo tiếp cận và sử dụng hiệu quả các nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng. Với mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bền vững, các địa phương tại tỉnh Bắc Ninh đã và đang có những cách làm hay, hiệu quả trong hỗ trợ, tạo sinh kế cho người dân vươn lên thoát nghèo bền vững. Giai đoạn 2021-2025 toàn tỉnh đã triển khai thực hiện trên 150 mô hình, dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, mô hình chăn nuôi, mô hình trồng trọt. Các địa phương đã triển khai hướng dẫn, đôn đốc việc xác định nội dung hỗ trợ, thực hiện triển khai cho các hộ dân đăng ký đảm bảo đúng đối tượng. Qua đó đã hỗ trợ sinh kế, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập bình quân tối thiểu cho người dân.

Cùng với đó, giai đoạn 2021 - 2024, tỉnh đã triển khai 113 dự án trong lĩnh vực nông nghiệp, trong đó: 06 dự án trồng trọt, 107 dự án chăn nuôi với tổng số 1.916 hộ tham gia, trong đó: 713 hộ nghèo, 745 hộ cận nghèo, 209 hộ mới thoát nghèo. Ước thực hiện năm 2025, toàn tỉnh triển khai 30 dự án trong lĩnh vực nông nghiệp, dự án chăn nuôi với tổng số 450 hộ tham gia, trong đó: 160 hộ nghèo, 156 hộ cận nghèo, 104 hộ mới thoát nghèo.

Với những giải pháp đồng bộ, thời gian qua, số hộ nghèo, hộ cận nghèo của tỉnh đã giảm xuống rõ rệt, dù trong điều kiện thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng kinh tế tác động rất lớn. Mục tiêu giảm nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều đạt và vượt kế hoạch đề ra, năm 2021, toàn tỉnh Bắc Ninh có 28.484 hộ nghèo, chiếm 3,47% (trong đó: tỉnh Bắc Ninh (cũ) có 4.209 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 1,15%; tỉnh Bắc Giang (cũ) có 24.369 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 5,27%). Đến hết năm 2024, hộ nghèo của tỉnh giảm xuống còn 8.308 hộ, tương đương với 0,97%. Đặc biệt, tỉnh Bắc Ninh (cũ) không còn hộ theo chuẩn nghèo quốc gia (giảm được 20.176 hộ tương đương với giảm 2,5%), đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đảng bộ tỉnh đề ra là "phấn đấu đến hết năm 2025" tỷ lệ hộ nghèo trong toàn tỉnh giảm còn dưới 1%. Dự kiến đến hết năm 2025, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021 - 2025 của tỉnh Bắc Ninh giảm còn 0,56%.

Kết quả giảm nghèo cho thấy, việc thực hiện đồng bộ các chính sách đã mang lại hiệu quả cao trong công tác giảm nghèo tại các địa phương, các hộ nghèo, hộ cận nghèo được hỗ trợ giúp đỡ, cải thiện các chiều thiếu hụt theo quy định của chuẩn nghèo đa chiều. Các địa bàn đặc biệt khó khăn đã được đầu tư cải thiện hệ thống kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống dân sinh.

Tại tỉnh Bắc Ninh, những năm gần đây, tư duy về giảm nghèo, chuẩn nghèo từ chính quyền đến cán bộ cơ sở và người dân đã thay đổi. Phương thức hỗ trợ chuyển từ cho không sang trợ giúp một phần, có đối ứng, có điều kiện. Các địa phương từng bước xây dựng nhiều mô hình liên kết sản xuất nhằm tạo điều kiện cho người nghèo sử dụng hiệu quả vốn, giống, sinh kế, chính sách. Hộ nghèo được tạo điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, tiếp cận thông tin, từ đó từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống, vươn lên thoát nghèo./.