Bảo vệ lý luận về đường lối đổi mới của Đảng: Ánh sáng soi đường đưa đất nước vươn mình vào kỷ nguyên mới

Thứ tư, 10/09/2025 - 15:34

Tóm tắt: Trong dòng chảy lịch sử cách mạng Việt Nam, đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng từ năm 1986 đã trở thành bước ngoặt quan trọng mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng và đạt được nhiều thành tựu to lớn.

Tuy nhiên, trước những biến động phức tạp của tình hình thế giới và âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, việc bảo vệ vững chắc lý luận đường lối đổi mới trở thành nhiệm vụ cấp thiết, có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Bài viết này sẽ làm rõ tính cấp thiết và những giải pháp cơ bản để bảo vệ lý luận đường lối đổi mới của Đảng trong giai đoạn hiện nay.

Lịch sử dân tộc đã chứng minh, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt trọng đại của cách mạng nước ta, đóng vai trò quyết định đối với công cuộc đấu tranh giành độc lập, xây dựng và phát triển đất nước. Từ những ngày đầu thành lập, đường lối của Đảng luôn là ánh sáng soi đường, dẫn dắt dân tộc ta vượt qua muôn vàn thử thách để đi tới thành công. Trong bối cảnh đất nước đang bước vào một kỷ nguyên mới với những cơ hội và thách thức đan xen, việc bảo vệ lý luận đường lối mới của Đảng là nhiệm vụ trọng yếu, cấp thiết hiện nay.

Sự cần thiết phải bảo vệ lý luận về đường lối đổi mới của Đảng

Thứ nhất, xuất phát từ giá trị của lý luận về đường lối đổi mới của Đảng

Lý luận về đường lối đổi mới là hệ thống quan điểm, tư tưởng chỉ đạo do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng từ Đại hội VI (1986), hình thành trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam trong bối cảnh đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Đây là công trình lý luận quan trọng, là bước ngoặt lớn phản ánh tư duy đổi mới toàn diện của Đảng, đặt nền móng cho sự phát triển đất nước trong thời kỳ mới.

Trước hết, lý luận này xuất phát từ yêu cầu bức thiết của thực tiễn khi mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp bộc lộ nhiều hạn chế, đời sống nhân dân gặp muôn vàn khó khăn. Đồng thời, kế thừa có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về cải cách, đặc biệt là bài học từ sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu. Trên cơ sở đó, Đảng ta đã đề ra lý luận đổi mới bao trùm toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội:

Về chính trị, Đảng ta luôn kiên định con đường đi lên xã hội chủ nghĩa đồng thời đổi mới hệ thống chính trị theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền, mở rộng dân chủ. Đã khẳng định bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và tinh thần cách mạng của Đảng: Đổi mới không phải là sự từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà là quá trình vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam qua từng giai đoạn phát triển. Trong kinh tế, Đảng chủ trương chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Đưa đất nước thoát khỏi tình trạng lạm phát phi mã, thiếu hụt trầm trọng lương thực - thực phẩm, hàng hóa, ngân sách. Với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã giúp huy động tối đa mọi nguồn lực trong và ngoài nước, tạo bước nhảy vọt về tăng trưởng, nâng cao đời sống nhân dân; Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, chú trọng phát triển con người toàn diện, bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội. Về quốc phòng - an ninh và đối ngoại, thực hiện chính sách mở cửa, đa phương hóa quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Kiên định nguyên tắc, không để xảy ra xung đột, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng. Chủ động hội nhập quốc tế đưa Việt Nam từ thế bị bao vây, cấm vận trở thành thành viên tích cực, nâng cao uy tín và vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Về lâu dài đường lối đổi mới mở ra thời kỳ phát triển mới cho đất nước: Đổi mới không dừng lại ở cải cách kinh tế mà còn cả lĩnh vực chính trị, xã hội, văn hóa, khoa học - công nghệ và tư duy quản trị quốc gia. Tạo tiền đề cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng thời làm cơ sở để thực hiện các chiến lược phát triển lâu dài, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng nền kinh tế tri thức và xã hội số.

Lý luận đường lối đổi mới của Đảng dựa trên nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lấy dân làm gốc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Về phương pháp thực hiện, Đảng chủ trương đổi mới từng bước, có thí điểm, tổng kết rút kinh nghiệm, lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm nghiệm chân lý. Lý luận đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đến nay đã mang lại giá trị thể hiện ở nhiều khía cạnh, từ việc nhận thức sâu sắc các quy luật phát triển, xác định mô hình kinh tế phù hợp, đến việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và ổn định chính trị, giữa truyền thống và hiện đại, giữa độc lập dân tộc và hội nhập quốc tế.

Đường lối đổi mới của Đảng ta đã khắc phục một cách hiệu quả những hạn chế của mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đây là một quyết định có ý nghĩa mang tính đột phá về mặt lý luận. Trong giai đoạn trước đổi mới, Việt Nam áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, dựa trên kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa, nhưng do không phù hợp với điều kiện thực tế, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Đảng đã nhận thức rõ, để thoát khỏi tình trạng đó, cần phải thay đổi tư duy, chấp nhận cơ chế thị trường như một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, khác với các nước tư bản, Việt Nam kiên định lựa chọn định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó Nhà nước giữ vai trò điều tiết, đảm bảo công bằng xã hội, ngăn chặn những mặt trái của kinh tế thị trường. Sự kết hợp giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là một đóng góp quan trọng vào lý luận phát triển, chứng minh rằng chủ nghĩa xã hội có thể vận dụng các quy luật thị trường để phát triển mà không đánh mất bản chất tốt đẹp của mình.

Lý luận đường lối đổi mới của Đảng đã giải quyết đúng đắn các mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và ổn định chính trị. Trong bối cảnh thế giới những năm 1980 - 1990, nhiều nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ do cải cách thiếu cân bằng, dẫn đến mất ổn định chính trị. Bài học đó là cơ sở để Đảng ta nhận thức sâu sắc, đổi mới không có nghĩa là từ bỏ các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội, mà phải giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời tiến hành cải cách kinh tế một cách đồng bộ. Chính nhờ rút kinh nghiệm, Việt Nam đã tránh được những xáo động lớn, tạo tiền đề cho tăng trưởng kinh tế bền vững.

Bên cạnh đó, đường lối đổi mới còn thể hiện tầm nhìn chiến lược trong việc kết hợp giữa phát huy nội lực và hội nhập quốc tế. Đảng ta đã chỉ rõ trong bối cảnh toàn cầu hóa, một quốc gia không thể phát triển nếu đóng cửa, không đa dạng các quan hệ hợp tác và tự cô lập mình. Nhưng tuyệt nhiên hội nhập phải đi đôi với việc giữ vững độc lập, tự chủ, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc là một yêu cầu mang tính chiến lược sâu sắc. Chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài, tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế như WTO, CPTPP, EVFTA… đã giúp Việt Nam tiếp cận công nghệ hiện đại, mở rộng thị trường, nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Đồng thời, nhấn mạnh yếu tố tự lực, tự cường, coi nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng. Đây là bài học lý luận quý báu, xác định hội nhập phải dựa trên nền tảng độc lập tự chủ, tránh lệ thuộc vào bên ngoài.

Bên cạnh đó, lý luận đường lối đổi mới còn thể hiện sâu sắc tư duy sáng tạo trong việc kết hợp giữa truyền thống và hiện đại. Đảng ta luôn coi trọng giá trị văn hóa, lịch sử dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để xây dựng một xã hội vừa hiện đại, vừa giàu bản sắc. Trong quá trình phát triển kinh tế, Việt Nam không sao chép máy móc mô hình của nước ngoài mà tìm ra con đường phù hợp với đặc điểm lịch sử, văn hóa, xã hội của mình. Đổi mới không có nghĩa là phủ nhận quá khứ, mà là kế thừa có chọn lọc, phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc trong điều kiện mới.

Giá trị lý luận đường lối đổi mới còn thể hiện ở phương pháp tiến hành, trong đó lấy thực tiễn làm thước đo, lắng nghe ý kiến nhân dân, điều chỉnh chính sách phù hợp với tình hình mới. Đảng luôn đề cao tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật", từ đó đề ra các quyết sách đúng đắn. Quá trình đổi mới không phải là một đường thẳng mà có nhiều khó khăn, thử thách, nhưng nhờ phương pháp khoa học, Đảng đã từng bước khắc phục sai lầm, hoàn thiện đường lối. Lý luận đường lối đổi mới không phải là giáo điều cứng nhắc, mà luôn vận động, phát triển cùng thực tiễn.

Nhìn lại gần 40 năm đổi mới, Việt Nam từ một nước bị khủng hoảng mọi mặt sau chiến tranh, bị bao vây, cấm vận, đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình. GDP bình quân đầu người tính theo giá hiện hành năm 1986 đạt 430,2 đô la Mỹ, đến năm 2023 đã tăng lên 4.346,8 đô la Mỹ, gấp 10,34 lần1, riêng năm 2024 GDP bình quân đầu người ước đạt 114 triệu đồng/người, tương đương 4.700 USD2 Việt Nam đã vươn lên trở thành nền kinh tế lớn nằm trong tốp 4 của ASEAN và trong tốp 40 của thế giới. Nước ta đã có quan hệ kinh tế - thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ; tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, các lĩnh vực của đời sống xã hội tiếp tục được coi trọng, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện, quyền con người ngày càng được đảm bảo; chất lượng đời sống nhân dân ngày càng được nâng lên; tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh tỷ lệ nghèo đa chiều chung toàn quốc năm 2024 là 4,06%, giảm 1,65% so với năm 20233, hoàn thành về đích sớm các mục tiêu Thiên niên kỷ; chính trị trong nước luôn ổn định; trong những thời điểm khó khăn, cấp bách như thiên tai, dịch bệnh, sức mạnh dân tộc với tinh thần đoàn kết, chia sẻ, tự lực, tự cường được phát huy tối đa, tạo thành nội lực to lớn giúp Việt Nam vượt qua những khó khăn, thách thức. Hơn nữa, từ một nước chỉ có mối quan hệ hạn hẹp với các nước láng giềng, các nước trong khuôn khổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa trước kia, cho đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 194 nước; đồng thời xây dựng các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các cường quốc trên thế giới; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; tiềm lực, vị thế, uy tín của nước ta ngày càng nâng cao trên trường quốc tế; tích cực tham gia đóng góp duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

Thứ hai, xuất phát từ âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận nội dung, giá trị hệ thống lý luận về đường lối đổi mới của Đảng

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và chuyển đổi thông tin mạnh mẽ hiện nay, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị luôn tìm cách xuyên tạc, bóp méo, phủ nhận giá trị lý luận và thực tiễn, những thành quả của công cuộc đổi mới nhằm làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ cho rằng đường lối đổi mới của Đảng ta "thiếu cơ sở khoa học", "không mang lại chuyển biến rõ rệt" và sự phát triển của Việt Nam còn thua kém nhiều nước trong khu vực và thế giới. Thậm chí, cho rằng những thành công của nước ta chỉ là "ngẫu nhiên" chứ không phải nhờ đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng. Xuyên tạc bản chất của đường lối đổi mới là sự "từ bỏ lý tưởng xã hội chủ nghĩa" hoặc "theo đuổi con đường tư bản chủ nghĩa". Họ cố tình đánh đồng công cuộc đổi mới với việc thay đổi mục tiêu, bản chất của chế độ, quy kết "đổi mới là đổi chất, đổi màu". Các thế lực thù địch còn lợi dụng những khó khăn trong đời sống một bộ phận nhân dân, những bất cập trong hiện thực hóa chủ trương, đường lối của Đảng để phủ nhận tính đúng đắn của lý luận đổi mới.

Bên cạnh đó, số đối tượng phản động, cơ hội chính trị thường phủ nhận những thành tựu kinh tế - xã hội mà đất nước đạt được sau gần bốn thập kỷ đổi mới. Bằng cách thổi phồng những hạn chế, khuyết điểm, họ bỏ qua những bước tiến vượt bậc về kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân và vị thế quốc tế của Việt Nam. Các thế lực thù địch đưa ra luận điệu vu cáo rằng tăng trưởng kinh tế chỉ làm giàu cho một nhóm người mà không cải thiện đời sống đại đa số nhân dân. Họ lờ đi những chính sách an sinh xã hội, đầu tư phát triển giáo dục, y tế, xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững mà Đảng và Nhà nước đã triển khai hiệu quả. Từ đó, xuyên tạc "đường lối đổi mới không có giá trị".

Một thủ đoạn khác là lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để công kích đường lối đổi mới. Họ vu cáo Việt Nam "thiếu dân chủ", "đàn áp tự do ngôn luận", trong khi thực tế, dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày càng được mở rộng, nhân dân tham gia tích cực vào công tác xây dựng Đảng, quản lý nhà nước thông qua các kênh dân chủ trực tiếp và gián tiếp. Việt Nam luôn coi trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, thể hiện rõ trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng và qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt trong Hiến Pháp năm 2013 đã quy định đầy đủ và toàn diện hệ thống các quyền con người, quyền công dân phù hợp với thực tiễn và các chuẩn mực quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam là thành viên. Nhưng thế lực thù địch luôn cố tình nhấn mạnh những sai phạm cá nhân hoặc sự cố đơn lẻ khái quát hóa thành "vấn đề hệ thống", để đổ lỗi cho Đảng, cho thể chế.

Đặc biệt, trong thời đại công nghệ số, họ tìm mọi cách để tận dụng những tính năng của mạng xã hội và các nền tảng trực tuyến để lan truyền thông tin sai lệch. Họ tạo ra những luận điệu giật gân, kích động, thậm chí dựng lên những "nhân chứng", "tài liệu mật" giả mạo để bôi nhọ Đảng. Cần khẳng định những luận điệu này hoàn toàn sai trái, xuất phát từ động cơ chính trị thiếu thiện chí, nhằm bôi nhọ vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã lựa chọn. Mục đích sâu xa của các thế lực thù địch là gieo rắc sự hoài nghi về lý luận đường lối đổi mới, hòng làm suy giảm niềm tin của quần chúng nhân dân vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vào sự lãnh đạo của Đảng, từ đó phá hoại sự ổn định chính trị - xã hội, kìm hãm sự phát triển của đất nước, hướng tới mưu đồ lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Thứ ba, xuất phát từ thực trạng công tác nghiên cứu, bảo vệ lý luận ở nước ta hiện nay

Trong thời gian qua, hoạt động nghiên cứu lý luận về đường lối đổi mới đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống lý luận về đổi mới ngày càng được hoàn thiện, làm rõ những quan điểm, chủ trương lớn của Đảng trong quá trình phát triển đất nước. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học, sách chuyên khảo, bài viết trên các tạp chí lý luận đã góp phần làm sâu sắc thêm nhận thức về con đường đổi mới. Các viện nghiên cứu, học viện, trường đại học và các cơ quan của Đảng, Nhà nước đã tích cực triển khai nhiều đề tài nghiên cứu cấp quốc gia, cấp bộ, gắn lý luận với thực tiễn. Những vấn đề lớn và phức tạp như kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, phát triển bền vững… đã được nghiên cứu bài bản, toàn diện và gắn liền với thực tiễn Việt Nam tạo cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách phát triển. Ngoài ra, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục lý luận cũng có nhiều bước đổi mới, phù hợp với từng đối tượng. Các cuộc hội thảo khoa học, tọa đàm chuyên đề, chương trình đào tạo cán bộ ngày càng thống nhất, sâu sắc và toàn diện hơn đã góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về đường lối đổi mới.

Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu, công tác nghiên cứu và bảo vệ lý luận về đường lối đổi mới vẫn còn nhiều bất cập. "Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa được quan tâm đúng mức, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu, một số vấn đề mới, khó, phức tạp chưa được làm sáng tỏ"4. Một số nghiên cứu còn mang tính hàn lâm, thiếu tính ứng dụng, chưa giải quyết được những vấn đề nóng hổi đặt ra từ thực tiễn.

Một số công trình nghiên cứu mới dừng lại ở mức độ tổng kết kinh nghiệm, chưa đi sâu phân tích, dự báo xu thế phát triển trong bối cảnh mới, nội dung lý luận còn khô khan, chậm đổi mới. Việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trước những luận điệu sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn chưa thực sự hiệu quả. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa thực sự tỉnh táo, chưa đủ bản lĩnh chính trị để đấu tranh phản bác các quan điểm sai lệch. Một số cơ quan báo chí, xuất bản chưa chủ động trong công tác tuyên truyền đường lối đổi mới của Đảng. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng trước yêu cầu thực tiễn đặt ra. Một bộ phận nhà khoa học trẻ chưa mặn mà với nghiên cứu lý luận do thiếu cơ chế đãi ngộ phù hợp. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lý luận còn chậm, dẫn đến tình trạng chưa theo kịp những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và trong nước. Nhận thức của một số cấp ủy, cán bộ về vai trò, tầm quan trọng của công tác lý luận chưa đầy đủ. Vẫn còn có nơi coi nghiên cứu lý luận là nhiệm vụ thứ yếu, dẫn đến đầu tư nguồn lực còn hạn chế. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nghiên cứu, đào tạo và tuyên truyền có lúc chưa thực sự hiệu quả. Đây là điểm nghẽn cần được nhận diện rõ và khắc phục kịp thời để nâng cao chất lượng tuyên truyền đường lối đổi mới của Đảng.

Lan tỏa ánh sáng lý luận đường lối đổi mới trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: "Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay"5. Với thế và lực đó, Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp tục khẳng định kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, "đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh, kỷ nguyên thịnh vượng dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"6 được đánh dấu tại Đại hội lần thứ XIV của Đảng.

Trong kỷ nguyên mới, khi cách mạng công nghiệp 4.0, toàn cầu hóa và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn đặt ra nhiều thách thức phức tạp, việc bảo vệ và phát triển lý luận đổi mới càng trở nên cấp thiết. Đường lối đổi mới của Đảng là sản phẩm trí tuệ, kết tinh từ quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, vừa dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vừa bám sát thực tiễn Việt Nam và xu thế thời đại. Tuy nhiên, thế giới ngày nay đang thay đổi với tốc độ nhanh chóng, đặt ra những vấn đề mới mà lý luận đổi mới cần phải giải quyết. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất, tạo ra sự đan xen về cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế. Toàn cầu hóa sâu rộng khiến các quốc gia phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn, nhưng cũng làm gia tăng nguy cơ khủng hoảng lan rộng. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tác động trực tiếp đến an ninh, chủ quyền của các nước nhỏ, trong đó có Việt Nam. Trong nước, quá trình phát triển cũng bộc lộ những hạn chế như khoảng cách giàu nghèo, ô nhiễm môi trường, tham nhũng, tiêu cực… Điều này đòi hỏi hệ thống lý luận về đường lối đổi mới phải không ngừng được bổ sung, phát triển để đáp ứng yêu cầu mới. Trước tình hình đó Đảng ta đặt ra yêu cầu: "Nâng tầm tư duy lý luận của Đảng, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp kịp thời cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước"7. Trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng xác định một trong những quan điểm chỉ đạo đó là: "Bảo vệ, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận đường lối đổi mới"8. Từ những vấn đề trên, bảo vệ lý luận về đường lối đổi mới của Đảng để đưa đất nước vươn mình vào kỷ nguyên mới, cần tập trung vào những giải pháp sau:

Một là, nâng cao nhận thức về giá trị khoa học và thực tiễn của hệ thống lý luận đường lối đổi mới. Đây không phải là sản phẩm chủ quan, mà là kết quả của quá trình tìm tòi, thử nghiệm, đúc rút từ thực tiễn đất nước và tham khảo kinh nghiệm quốc tế. Đường lối đổi mới khẳng định tính đúng đắn. Do đó, bảo vệ hệ thống lý luận về đường lối đổi mới chính là bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ con đường phát triển đã được lựa chọn. Để bảo vệ hiệu quả hệ thống lý luận đổi mới, công tác tuyên truyền, giáo dục phải được đẩy mạnh. Cần làm cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, hiểu rõ bản chất, mục tiêu và ý nghĩa của đường lối đổi mới. Các cơ quan báo chí, truyền thông cần chủ động truyền tải thông tin chính xác. Trong giáo dục, đưa nội dung về đường lối đổi mới vào chương trình giảng dạy từ phổ thông đến đại học, giúp học sinh, sinh viên nắm vững lý luận, từ đó hình thành niềm tin và ý thức trách nhiệm trong việc gìn giữ, phát triển thành quả cách mạng. Đồng thời, đa dạng hóa hình thức tuyên truyền để lan tỏa những giá trị tích cực của công cuộc đổi mới đến đông đảo quần chúng nhân dân.

Hai là, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu lý luận và đúc rút kinh nghiệm thực tiễn nhằm hoàn thiện lý luận về đường lối đổi mới trong tình hình mới. Theo đó, tiến hành nghiên cứu toàn diện chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, xác định các luận điểm cần được bổ sung hoặc điều chỉnh cho phù hợp. Việc phát triển hệ thống lý luận cần cung cấp cơ sở khoa học vững chắc và những dự báo chiến lược cho con đường phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình này đòi hỏi phải nhận diện và phân tích các mâu thuẫn, vấn đề nảy sinh từ thực tiễn; xác định xu hướng vận động chủ yếu; đề xuất giải pháp phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Một trong những yêu cầu hàng đầu của công tác bảo vệ và phát triển lý luận đổi mới là cần kiên định nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời vận dụng sáng tạo vào thực tiễn đất nước. Lịch sử đã chứng minh rằng, mọi sự xa rời nền tảng tư tưởng của Đảng đều dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng. Do đó, công tác nghiên cứu lý luận phải luôn bám sát quan điểm, đường lối của Đảng, đồng thời dám nhìn thẳng vào sự thật, phân tích đúng khuyết điểm để tìm ra giải pháp khắc phục. Bên cạnh đó, phải đổi mới tư duy lý luận, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám đương đầu với thử thách để giải quyết những vấn đề mới nảy sinh. Thế giới đang thay đổi nhanh chóng, nếu lý luận không theo kịp thực tiễn sẽ trở nên lạc hậu, không còn sức sống. Do đó, công tác nghiên cứu lý luận không thể chỉ dừng lại ở việc giải thích, minh họa đường lối mà phải đi trước, dự báo xu thế, đề xuất giải pháp mới. Phải gắn lý luận với thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo chân lý. Lý luận chỉ có giá trị khi nó giải quyết được những vấn đề thực tế, mang lại lợi ích cho nhân dân. Do đó, công tác nghiên cứu không thể chỉ diễn ra tại "bàn nghiên cứu", trong "phòng lý luận" mà phải bám sát đời sống, lắng nghe tiếng nói của nhân dân, của doanh nghiệp, của các tầng lớp xã hội. Hơn nữa, bảo vệ và phát triển lý luận đổi mới phải tiếp thu một cách có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, học hỏi kinh nghiệm quốc tế, đồng thời giữ vững bản sắc dân tộc.

Ba là, tăng cường công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Các đối tượng phản động sẽ không ngừng tìm cách lợi dụng những khó khăn, bất cập tất yếu trong quá trình đổi mới để xuyên tạc, bôi nhọ Đảng, Nhà nước, phủ nhận những thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam với nhiều hình thức tinh vi, xảo quyệt. Do đó, cần kiên quyết vạch trần bản chất và âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch, đồng thời khẳng định mạnh mẽ tính nhất quán trong đường lối đổi mới của Đảng: Đổi mới là một quá trình cải cách toàn diện, có nguyên tắc, nhằm khắc phục những hạn chế của mô hình cũ, từ đó tạo ra động lực phát triển mới, làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và xây dựng có hiệu quả hơn, phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế thời đại. Công tác đấu tranh tư tưởng hiện nay phải được tiến hành toàn diện, kết hợp nhuần nhuyễn giữa "xây" và "chống", trong đó "xây" là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, còn "chống" là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. Do đó, cần tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên và nhân dân để vững vàng trước mọi luận điệu xuyên tạc, chống phá. Công tác tuyên truyền cần đổi mới mạnh mẽ cả về nội dung và phương thức, sử dụng hiệu quả các phương tiện truyền thông hiện đại, đặc biệt là internet và mạng xã hội, để kịp thời cung cấp thông tin chính thống, định hướng dư luận xã hội.

Bốn là, phát huy sức mạnh tổng hợp trong bảo vệ lý luận về đường lối đổi mới của Đảng. Mọi thắng lợi lớn lao của cách mạng dân tộc ta đều bắt nguồn từ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, từ sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Do đó, trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước đang vươn mình vào kỷ nguyên mới, việc huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cần đổi mới phương thức hoạt động, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, vận động để đường lối đổi mới thực sự thấm sâu vào mọi tầng lớp xã hội. Cùng với đó, đội ngũ trí thức cần đi sâu nghiên cứu, phát triển lý luận, góp phần làm phong phú thêm hệ thống tư tưởng của Đảng. Các văn nghệ sĩ, thông qua các tác phẩm văn học, nghệ thuật, cần phản ánh chân thực, sinh động những thành tựu của công cuộc đổi mới, cổ vũ tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thực sự là hạt nhân tiên phong trong bảo vệ lý luận về đường lối đổi mới. Mỗi cán bộ, đảng viên cần không ngừng tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, thực sự là tấm gương sáng về đạo đức cách mạng, về tinh thần trách nhiệm trước nhân dân. Gương mẫu trong việc chấp hành chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tích cực đưa chủ trương, nghị quyết vào cuộc sống, kiên quyết đấu tranh bài trừ những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Phát huy mạnh mẽ vai trò của các cơ quan truyền thông, báo chí trong việc tuyên truyền, bảo vệ đường lối đổi mới. Báo chí cách mạng phải thực sự là vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng, kịp thời cung cấp thông tin chính thống, định hướng dư luận xã hội, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển báo chí điện tử, mạng xã hội để nâng cao hiệu quả tuyên truyền trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0.

Lý luận về đường lối đổi mới là ngọn đuốc soi đường cho dân tộc Việt Nam vượt qua khó khăn, vươn lên sánh vai cùng các cường quốc năm châu. Đường lối đổi mới của Đảng là quá trình kế thừa, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta. Do đó, bảo vệ lý luận về đường lối đổi mới ở nước ta hiện nay chính là góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Lý luận về đường lối đổi mới của Đảng là hệ thống mở, không ngừng được bổ sung, hoàn thiện trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Đây là nền tảng lý luận quan trọng tiếp tục dẫn dắt đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Thiếu tá Chu Xuân Đại Thắng, Học viện chính trị - Đại úy Trịnh Thị Thúy, Trường Sĩ quan Lục Quân 2


Tài liệu tham khảo

1. Báo Quân đội nhân dân điện từ, Triển vọng kinh tế Việt Nam, https://www.qdnd.vn, ngày 01/9/2024.2. Báo Quân đội nhân dân điện tử, Kinh tế Việt Nam khởi sắc, https://www.qdnd.vn, ngày 07/01/2025.3. Báo Nhân dân điện tử, Tỷ lệ nghèo đa chiều toàn quốc năm 2024 là 4,06%, https://nhandan.vn, ngày 10/02/2025.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,  Nxb Chính trị quốc gia Sự thật. Hà Nội, tập I, tr.90-91.

5. Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.7.

6. Tạp chí Cộng sản điện tử, Tổng Bí thư Tô Lâm trao đổi chuyên đề "Kỷ nguyên phát triển mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam", https://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 25/11/2024.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,  Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập II, tr.234-235.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2024), Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.105.