1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, Việt Nam đang đối mặt với nhiều thời cơ và thách thức đan xen. Một yêu cầu cấp thiết để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên "vươn mình của dân tộc" là tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị, nhất là tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng tinh, gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: "việc tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị là đòi hỏi rất cấp thiết trong tình hình thực tiễn" [1]. Cải cách tổ chức bộ máy không chỉ nhằm tiết kiệm ngân sách, mà quan trọng hơn là nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia, tạo động lực phát triển đất nước. Tuy nhiên, quá trình cải cách tổ chức bộ máy nhà nước hiện nay cũng gặp nhiều thách thức, đặc biệt là sự xuyên tạc của các thế lực thù địch. Một trong những luận điệu sai trái nguy hiểm, cho rằng việc cải cách tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước hiện nay đồng nghĩa với "thay đổi thể chế chính trị". Đây là quan điểm phiến diện, sai lầm nghiêm trọng, cần được nhận diện rõ và kiên quyết bác bỏ bằng các luận cứ lý luận và thực tiễn vững chắc.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Nhận diện bản chất quan điểm sai trái cho rằng cải cách tổ chức bộ máy nhà nước "là thay đổi thể chế chính trị"
Trong thời gian gần đây, đặc biệt sau khi Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành Kết luận số 126-KL/TW ngày 14/2/2025 và Kết luận số 127-KL/TW ngày 28/2/2025 về việc triển khai nghiên cứu, đề xuất tiếp tục sắp xếp, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị trong năm 2025, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị gia tăng hoạt động chống phá một cách có hệ thống. Chúng lợi dụng báo chí ngoài nước, diễn đàn phản động và mạng xã hội (VOA, RFA, BBC tiếng Việt; Việt Tân; các blog cá nhân phản động của Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Trường Sơn, Phạm Minh Vũ, Trần Minh Nhật, Trương Quốc Huy...) để lan truyền luận điệu sai trái rằng cải cách tổ chức bộ máy nhà nước là sự "thay đổi thể chế chính trị". Nội dung xuyên tạc của chúng tập trung ở ba phương diện chính:
Thứ nhất, xuyên tạc mục đích và bản chất của cải cách.
Các luận điệu xuyên tạc cố tình phủ nhận tính tất yếu khách quan và cơ sở khoa học của cải cách, quy kết đây là sản phẩm "ý chí chủ quan" hoặc "đấu đá nội bộ", từ đó bóp méo vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và bản chất nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
Đồng thời, các thế lực thù địch triển khai âm mưu nhằm gieo rắc hoài nghi về tính trong sáng của những người thực hiện cải cách, quy kết cải cách như một công cụ để "triệt hạ đối thủ" trong nội bộ chính trị, thay vì nhìn nhận đúng bản chất là nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhằm phục vụ nhân dân tốt hơn. Các luận điệu xuyên tạc, cho rằng cải cách là công cụ để "thanh trừng nội bộ", "loại bỏ phe cánh", cố tình bỏ qua tính khoa học và thực tiễn của các giải pháp tinh gọn bộ máy.
Thủ đoạn xuyên tạc này được sử dụng hết sức tinh vi và có hệ thống. Các thế lực thù địch dựng lên những ‘thuyết âm mưu" về "tranh giành quyền lực" giữa các nhóm lợi ích; lan truyền thông tin sai lệch về việc cải cách, nhằm "củng cố quyền lực cho một nhóm người". Nguy hiểm hơn, chúng còn tạo lập các luận điệu kích động về "phe cánh", "thỏa hiệp lợi ích", "giành giật quyền lực", "tranh đoạt di sản", "sáp nhập rồi lại tách ra để kiếm ghế", nhằm phá hoại niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước và tính chính đáng của công cuộc cải cách.
Thứ hai, đánh tráo khái niệm, thổi phồng khó khăn, thử thách trong công cuộc cải cách.
Đánh tráo khái niệm thể hiện phương pháp phản biện không khoa học, khi các thế lực thù địch cố ý xóa nhòa ranh giới giữa hai khái niệm có bản chất và mục tiêu khác biệt. Khi nhìn nhận cải cách bộ máy nhà nước (cải cách hành chính) với cải cách hệ thống chính trị, cần phải nhận thức rõ: cải cách bộ máy nhà nước là quá trình cải tiến, hoàn thiện phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước trong khuôn khổ thể chế hiện hành nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý; cải cách hệ thống chính trị liên quan đến việc thay đổi bản chất, cấu trúc và nguyên tắc vận hành của thể chế. Việc cố tình đồng nhất hai khái niệm này thể hiện sự giản lược hóa phi khoa học, bỏ qua các vấn đề cốt lõi về quyền lực và dân chủ; đồng thời, không phân biệt được tính hệ thống và sự tương tác đa chiều giữa các thành tố trong hệ thống chính trị, trong đó cải cách bộ máy nhà nước chỉ là một thành tố.
Mục đích của sự đánh tráo khái niệm là tạo ra những luồng nhận thức sai lệch về một cuộc "chuyển đổi thể chế" toàn diện ở Việt Nam. Bằng cách đánh tráo khái niệm, các thế lực thù địch muốn dẫn dắt dư luận đến những kết luận sai lệch về bản chất của cải cách; khẳng định việc sáp nhập các cơ quan hành chính là "bước đệm" cho việc thay đổi cơ cấu quyền lực; đánh đồng tinh gọn bộ máy với "cuộc cách mạng thể chế" nhằm chuyển đổi sang mô hình nhà nước khác; cố tình gán ghép công cuộc cải cách hiện nay với những thuật ngữ mang tính chính trị như: "tái cấu trúc quyền lực" và "chuẩn bị thay đổi chế độ".
Ngoài ra, các thế lực thù địch còn sử dụng ngôn ngữ mập mờ, không chính xác khi bàn về "cải cách"; lẫn lộn có chủ đích các khái niệm "đổi mới chính trị", "cải cách hệ thống chính trị", "cải cách hành chính", nhằm đánh lạc hướng nhận thức dư luận. Chúng phóng đại các biểu hiện cụ thể của cải cách (sáp nhập cơ quan, tinh gọn bộ máy) như thể đó là bước đi dẫn tới "thay đổi mô hình nhà nước". Đồng thời, chúng lợi dụng một số khó khăn nhất thời trong quá trình cải cách để thổi phồng thành "khủng hoảng cơ cấu", thậm chí quy kết là "sụp đổ hệ thống". Từ việc phủ nhận thành tựu cải cách, các thế lực thù địch thúc đẩy các quan điểm phản khoa học và phi thực tiễn như: "xóa bỏ Đảng trị" và thay thế bằng các mô hình quản trị đa nguyên; "thiết lập chế độ đa đảng đối lập" thay cho hệ thống chính trị hiện hành; "thay đổi mô hình nhà nước" theo hướng từ bỏ các nguyên tắc tổ chức của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đây chính là mục tiêu xuyên suốt và lâu dài của chúng.
Thứ ba, bôi nhọ uy tín lãnh đạo nhằm phá hoại niềm tin của Nhân dân vào công cuộc cải cách.
Đây là một phương thức tấn công trực diện vào nền tảng tinh thần, ý chí và sự đoàn kết của toàn xã hội trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Phương thức này thể hiện sự can thiệp trực tiếp vào trụ cột quan trọng của sự ổn định chính trị - xã hội: niềm tin của nhân dân vào hệ thống lãnh đạo. Bản chất của phương thức này thể hiện ở việc sử dụng thông tin sai lệch, xuyên tạc hoặc phóng đại những khuyết điểm không đáng kể, để công kích uy tín của lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước; gieo rắc hoài nghi về tính đúng đắn, hiệu quả của quá trình đổi mới; làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo và tiến trình cải cách.
Mục đích sâu xa của phương thức này là tạo ra sự nghi ngờ lẫn nhau trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, phá vỡ niềm tin và sự đoàn kết trong nội bộ Đảng, từ đó làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - lực lượng tiên phong và duy nhất có khả năng dẫn dắt đất nước vượt qua mọi khó khăn, thách thức; từ đây, kích động sự hoang mang, chia rẽ khối thống nhất trong nội bộ Đảng và trong Nhân dân; cản trở tiến trình đổi mới, thúc đẩy các hoạt động chống phá chế độ; gây bất ổn chính trị - xã hội, tạo tiền đề cho các hoạt động nổi dậy lật đổ chính quyền, xóa bỏ chế độ. Đây không chỉ là những hành động đơn lẻ mà là một chiến lược có hệ thống, được triển khai theo một lộ trình rõ ràng hướng tới mục tiêu cuối cùng là "thay ngựa giữa dòng", cài cắm, móc nối để "tiếm quyền" đưa những phần tử cơ hội vào thực hiện "chuyển hóa" từ bên trong Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị.
Thủ đoạn được sử dụng thể hiện tính tinh vi và xảo quyệt ngày càng cao. Các thế lực thù địch núp dưới danh nghĩa "người ủng hộ cải cách" để tuyên truyền lệch lạc; tạo ấn tượng về "mâu thuẫn nội bộ" không có thực; sử dụng ngôn từ mang tính xúc phạm, ám chỉ với dụ ý xấu; áp dụng các cụm từ quy chụp như "Bộ Tô Lâm", "Bộ Hưng Yên"; tạo ra các cụm từ vu khống như "cải cách nửa vời", "bảo kê cán bộ - ăn hại"; đối lập hóa lãnh đạo qua các thời kỳ, như tạo đối lập giả tạo giữa di sản của Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và đường lối của Tổng Bí thư Tô Lâm; xuyên tạc phát ngôn và khẩu hiệu "kỷ nguyên vươn mình" thành "Thời kỳ thoái trào của chế độ", và đặt câu hỏi mang tính khiêu khích như "vươn đi đâu?" hay "vươn bằng cái gì?" nhằm tạo ra sự hoài nghi về tầm nhìn và chiến lược phát triển đất nước. Đây là những luận điệu phản động, phi lý, mang tính kích động chính trị trắng trợn, thể hiện âm mưu chống phá toàn diện từ bên trong đến bên ngoài.
Cải cách tổ chức bộ máy nhà nước ở Việt Nam là một quá trình tất yếu, được thực hiện có định hướng, lộ trình rõ ràng, dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng. Mục tiêu xuyên suốt là hoàn thiện bộ máy nhà nước trong khuôn khổ hệ thống chính trị hiện hành, tuyệt đối không nhằm thay đổi bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa, vai trò lãnh đạo của Đảng hay các nguyên tắc tổ chức, vận hành của Nhà nước. Do đó, quan điểm cho rằng cải cách tổ chức bộ máy nhà nước đồng nghĩa với thay đổi thể chế chính trị là hoàn toàn sai lầm, phản động, thiếu cơ sở khoa học, cần được phản bác bằng những luận cứ chặt chẽ, khoa học.
Thứ nhất, cơ sở khoa học của cải cách tổ chức bộ máy Nhà nước Việt Nam.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, trong xã hội, bộ máy nhà nước phải được tổ chức một cách khoa học, hợp lý, phù hợp với bản chất giai cấp và yêu cầu của thực tiễn lịch sử trong từng giai đoạn phát triển cụ thể. Ph.Ănghen khẳng định. Ph.Ănghen khẳng định: "Nhà nước tồn tại không phải là mãi mãi từ ngàn xưa. Đã từng có những xã hội không cần đến nhà nước… Đến một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định, giai đoạn tất nhiên phải gắn liền với sự phân chia xã hội thành giai cấp thì sự phân chia đó làm cho nhà nước trở thành một tất yếu" [2]. Theo đó, bộ máy nhà nước trong xã hội chủ nghĩa không thể sao chép mô hình cũ của nhà nước tư sản, mà cần được xây dựng tinh gọn, minh bạch, phục vụ lợi ích của nhân dân lao động, thể hiện quyền lực thực chất của quần chúng. V.I.Lênin tiếp nối tư tưởng đó, đề xuất nguyên tắc "Thà ít mà tốt", nhấn mạnh việc xây dựng bộ máy công quyền hiệu quả, khắc phục bệnh quan liêu, trì trệ, bảo thủ và đặt chất lượng phục vụ làm thước đo trung tâm.
Đặc biệt, xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn. Ở Việt Nam hiện nay, xây dựng bộ máy nhà nước tinh, gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả là yêu cầu tất yếu, xuyên suốt trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Từ các triều đại phong kiến, như: Đinh, Lý, Trần, Lê xây dựng bộ máy nhà nước đều trên nền tảng của tư tưởng lấy dân làm gốc, gần dân và chăm dân, đặc biệt dưới thời vua Lê Thánh Tông, nhà nước quân chủ tập quyền được tổ chức hiệu quả với quan điểm: "trị nước mà không lấy nhân tài làm gốc… thì đều chỉ là cẩu thả tạm bợ mà thôi" [3]. Tư tưởng đó cho thấy vai trò quyết định của việc xây dựng cơ cấu bộ máy nhà nước hợp lý và đội ngũ quan lại có phẩm chất, năng lực trong việc bảo đảm hiệu quả vận hành, quản lý đất nước. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến cải cách hành chính và tinh gọn bộ máy. Người nhấn mạnh nguyên tắc: "phải gần dân, sát dân, phục vụ nhân dân" [4]; "Bộ máy nhà nước phải thật sự của dân, do dân và vì dân, không để bộ máy công quyền trở thành gánh nặng cho nhân dân" [5]. Những tư tưởng này của Người đã trở thành kim chỉ nam cho cải cách hiện nay, khẳng định cải cách bộ máy nhà nước không hề làm thay đổi thể chế chính trị mà chính là để củng cố, hoàn thiện và làm cho thể chế đó vận hành hiệu quả hơn trong điều kiện mới.
Trải qua gần 40 năm đổi mới, Đảng ta luôn thể hiện quyết tâm cao trong việc tổ chức lại bộ máy hệ thống chính trị thông qua nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận quan trọng. Từ Nghị quyết Trung ương 5 khóa X đến Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, Đảng ta chủ trương tinh giản biên chế, sắp xếp, tổ chức lại bộ máy theo hướng "tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả", tuân thủ nguyên tắc, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu xây dựng bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu quả. Ngày 01/12/2024, tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: cần thúc đẩy cải cách mạnh mẽ với tinh thần quyết liệt, "vừa chạy vừa xếp hàng", "không cầu toàn nhưng không nóng vội", đảm bảo mô hình tổ chức mới phải tốt hơn, hiệu quả hơn mô hình cũ. Việc sắp xếp tổ chức bộ máy được thực hiện toàn diện, với phương châm: "Trung ương làm gương, địa phương hưởng ứng" và nhận được sự đồng thuận cao từ các cấp, các ngành và nhân dân. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính khẳng định: "Đảng đã chỉ đạo, Chính phủ đã thống nhất, Quốc hội đã ủng hộ, nhân dân đã đồng tình, Tổ quốc mong đợi, chỉ bàn làm, không bàn lùi" [6]. Những chỉ đạo này thể hiện ý chí mạnh mẽ, quyết tâm đẩy nhanh tiến độ cải cách. Đây là thời cơ vàng để tinh gọn bộ máy, nếu chậm trễ, "để lỡ thời cơ là có lỗi với đất nước, với nhân dân".
Thứ hai, xu hướng cải cách bộ máy nhà nước trên thế giới.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xu hướng cải cách tổ chức bộ máy nhà nước trở thành yêu cầu cấp thiết đối với mọi quốc gia. Mục tiêu chung của các cuộc cải cách này là xây dựng một bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, minh bạch và phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân và doanh nghiệp. Tại Pháp, quá trình phân quyền được tiến hành thông qua hai đạo luật năm 1983, nhằm giảm chi phí hành chính, tăng hiệu quả quản lý bằng cách chuyển giao quyền lực và nguồn lực cho các địa phương. Từ năm 2004, luật mới tiếp tục phân quyền sâu rộng, chuyển giao cho các vùng một số công trình lớn như sân bay và quốc lộ [7], giúp tăng tính chủ động trong phát triển. Ở Nhật Bản, tháng 4/1999, Nội các Obuchi Keizo trình Quốc hội 17 dự luật cải tổ, tinh giản bộ máy, nâng cao vai trò điều hành của Thủ tướng. Từ 1/1/2001, bộ máy hành chính giảm từ 22 bộ xuống còn 13 [8], thể hiện quyết tâm tối ưu hóa cấu trúc và chức năng quản trị quốc gia. Ở Trung Quốc, từ năm 1988 đã thực hiện cải cách các cơ quan ngang bộ giảm từ 59 xuống còn 53 cơ quan và số bộ giảm từ 40 xuống còn 23 bộ. Các đợt cải cách tiếp theo vào các năm 2008 và 2013, Trung Quốc tập trung vào việc xóa bỏ chức năng chồng chéo, xây dựng một nền hành chính hiện đại, phục vụ hiệu quả hơn cho người dân [9].
Thực tiễn ở các quốc gia trên thế giới cho thấy, cải cách bộ máy nhà nước không đồng nghĩa với thay đổi thể chế chính trị, mà là điều kiện để duy trì và phát triển thể chế chính trị, giúp thể chế chính trị thích ứng với những thay đổi của điều kiện kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Một bộ máy tinh gọn, hiệu quả giúp giảm chi ngân sách, cải thiện môi trường kinh doanh, tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững và củng cố niềm tin của nhân dân vào thể chế chính trị.
Thứ ba, thể hiện tầm nhìn chiến lược, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng nhằm tăng cường hiệu quả quản lý của Nhà nước.
Cải cách tổ chức bộ máy nhà nước không phải là sự từ bỏ, mà là sự khẳng định và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện mới, phù hợp với yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước. Những luận điệu cho rằng "cải cách bộ máy nhà nước là biểu hiện của việc từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng" là sự xuyên tạc có chủ đích, phản động về bản chất, nhằm gieo rắc hoài nghi và làm suy giảm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng. Đây là hành vi đánh tráo khái niệm một cách tinh vi, cố tình đồng nhất giữa yêu cầu đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước trong khuôn khổ thể chế chính trị hiện hành với ý đồ thay đổi vai trò lãnh đạo của Đảng - một nhận thức sai lầm, phản lý luận, phản thực tiễn và đi ngược lại xu thế phát triển tất yếu của thời đại.
Thực chất, cải cách bộ máy nhà nước là bước đi chiến lược, mang tính hệ thống, nằm trong tổng thể lộ trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước" [10]. Tất cả các nội dung cải cách, từ sắp xếp tổ chức bộ máy, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ đến đổi mới cơ chế vận hành, đều hướng tới mục tiêu làm cho bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân tốt hơn, chứ tuyệt nhiên không phải nhằm làm suy giảm vai trò lãnh đạo của Đảng.
Thực tiễn gần 40 năm đổi mới đã chứng minh: Chính nhờ sự lãnh đạo kiên định, toàn diện và sáng tạo của Đảng mà bộ máy Nhà nước từng bước được hoàn thiện theo hướng tinh gọn, kỷ cương, hiệu lực, hiệu quả; hiệu quả quản lý, phục vụ nhân dân được nâng cao rõ rệt. Đại hội XIII tiếp tục nhấn mạnh: "đổi mới phương thức vận hành của Nhà nước theo hướng hoàn thiện thể chế, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân" [11]. Điều đó cho thấy, vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định, bảo đảm cho cải cách bộ máy nhà nước đi đúng định hướng chính trị, giữ vững nguyên tắc xã hội chủ nghĩa, gắn kết chặt chẽ giữa quyền lực nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân.
Cải cách bộ máy nhà nước vì vậy không làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng, mà ngược lại, là minh chứng sống động cho sự lãnh đạo năng động, sáng suốt, biết tự điều chỉnh, thích ứng của Đảng trước yêu cầu phát triển mới. Đây không chỉ là yêu cầu mang tính chính trị, mà còn là quy luật tất yếu được chứng minh bởi thực tiễn và khẳng định bởi lý luận cách mạng của Đảng.
Thứ tư, tiếp tục kế thừa và phát huy mạnh mẽ các giá trị, thành tựu to lớn của công cuộc cải cách tổ chức bộ máy nhà nước gần 40 năm đổi mới ở Việt Nam.
Cải cách tổ chức bộ máy nhà nước là một khâu, một mắt xích quan trọng trong đổi mới, cải cách hành chính toàn diện, là quy luật tất yếu trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Theo Hiến pháp năm 2013, quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Việc sắp xếp, sáp nhập tổ chức bộ máy nhà nước đều được thực hiện trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước hiện hành, chứ không nhằm thay đổi nền tảng quyền lực hay chuyển đổi mô hình thể chế chính trị như các luận điệu phản động xuyên tạc.
Mục tiêu cốt lõi của việc cải cách tổ chức bộ máy nhà nước không phải là phục vụ tham vọng cá nhân hay phe nhóm như những luận điệu của các thế lực thù địch, phản động đang rêu rao, xuyên tạc, mà chính là nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Cải cách hướng đến giảm chồng chéo chức năng, nhiệm vụ; khắc phục tình trạng cồng kềnh, nhiều tầng, nhiều nấc, kém hiệu quả của bộ máy; phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị, cá nhân; đồng thời, cải cách còn nhằm tối ưu hóa nguồn lực nhà nước, tiết kiệm ngân sách, giảm chi phí vận hành, từ đó tập trung nguồn lực cho phát triển đất nước và nhu cầu chính đáng của nhân dân được tốt hơn.
Từ sau Nghị quyết số 18-NQ/TW năm 2017, công cuộc cải cách ở Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả cụ thể. Theo Báo cáo của Chính phủ gửi Kỳ họp thứ Tư, Quốc hội khóa XV, việc sắp xếp cơ cấu tổ chức các bộ, cơ quan ngang bộ cơ quan thuộc Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026 giảm 17 tổng cục, 8 cục và 145 vụ; việc sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2019-2021 giúp giảm được 08 huyện và 561 xã; giảm được 07 sở và 2.159 phòng thuộc sở và thuộc UBND cấp huyện. Các đơn vị sự nghiệp công ở Trung ương và địa phương giảm được 7.469 đơn vị; cả nước tinh giản được khoảng 78 nghìn biên chế công chức, viên chức, qua đó giúp tiết kiệm được 25,6 nghìn tỷ đồng [12] để tăng chi cho đầu tư phát triển. Nhiều chính sách thiết thực được triển khai, như: Đề án "Đầu tư xây dựng ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021-2030" [13]; miễn học phí cho học sinh mầm non đến hết trung học phổ thông công lập trên toàn quốc, từ đầu năm học mới 2025-2026 (tháng 9/2025 trở đi) [14]. Những kết quả này là minh chứng bác bỏ hoàn toàn các luận điệu xuyên tạc cho rằng cải cách chỉ mang tính hình thức hay gây thêm gánh nặng cho ngân sách nhà nước.
Cải cách tổ chức bộ máy ở Việt Nam không phải là một cuộc đấu đá quyền lực giữa các phe nhóm như luận điệu xuyên tạc, mà là sự đồng lòng, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân trong việc nâng cao hiệu quả quản trị nhà nước. Quá trình thực hiện diễn ra công khai, minh bạch, dân chủ, với sự tham gia đóng góp ý của các cấp, các ngành, nhân dân và nhận được sự đồng thuận cao. Nhiều cán bộ, công chức, viên chức đã tự nguyện từ chức, nghỉ hưu sớm để tạo điều kiện cho cải cách. Tính đến nay có "180 cán bộ, công chức, viên chức tự nguyện nghỉ trước tuổi khi Bộ Nội vụ hợp nhất với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội" [15]. Theo thông tin từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường, "hiện có khoảng 1.000 công chức, viên chức có nguyện vọng xin nghỉ sớm" [16]. Những con số này cho thấy tinh thần trách nhiệm, minh bạch và tính chính danh của cải cách - hoàn toàn trái ngược với các luận điệu xuyên tạc về "lợi ích nhóm" hay "tranh giành quyền lực".
2.3. Định hướng một số giải pháp tiếp tục đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc cải cách bộ máy nhà nước ở Việt Nam
Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục một cách hệ thống, khoa học và sâu rộng về bản chất, mục tiêu, ý nghĩa và tính tất yếu khách quan của cải cách tổ chức bộ máy nhà nước. Đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng nhằm củng cố niềm tin, nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội và khơi dậy tinh thần trách nhiệm, thái độ đúng đắn của cán bộ, đảng viên, nhân dân. Đồng thời, phải đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc của thế lực thù địch, phản động, nhất là những vấn đề dư luận quan tâm như sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã, xóa bỏ đơn vị hành chính cấp quận, huyện, tác động của cải cách đến hệ thống chính trị, kinh tế - xã hội. Nội dung tuyên truyền cần rõ ràng, dễ tiếp cận, có cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc, bảo đảm tính hợp lý và thuyết phục cao.
Thứ hai, đẩy mạnh đấu tranh trực diện trên các phương tiện truyền thông, đặc biệt là mạng xã hội, kết hợp chặt chẽ với công tác quản lý không gian mạng như phát hiện, bóc gỡ, xử lý thông tin sai trái. Cần xây dựng đội ngũ chuyên trách có trình độ cao về công nghệ và truyền thông, kịp thời xử lý tin giả, thông tin xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thứ ba, chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, "sức đề kháng tư tưởng" và "tâm lý miễn dịch" trước các luận điệu sai trái, thù địch; đồng thời, tăng cường ý thức cảnh giác cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Đây là nhân tố có tính quyết định trong việc bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, củng cố niềm tin xã hội và giữ vững thành quả cải cách tổ chức bộ máy nhà nước.
Thứ tư, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về cải cách tổ chức bộ máy nhà nước nhằm cung cấp cơ sở khoa học và luận cứ xác đáng cho công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Hoạt động này cần được thực hiện bởi các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm thực tiễn phong phú, năng lực phân tích toàn diện và tư duy phản biện sắc bén, đảm bảo tính khách quan, khoa học và thực tiễn trong từng kết luận nghiên cứu.
Thứ năm, phát huy vai trò, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và huy động sự tham gia tích cực của toàn dân trong cải cách tổ chức bộ máy nhà nước. Trong mọi hoàn cảnh, phải nhất quán giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng và kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, coi đây là nguyên tắc bất di bất dịch, bảo đảm cho công cuộc cải cách được triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả và bền vững.
3. Kết luận
Cải cách bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay là một nhu cầu nội tại, tất yếu khách quan của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đây là quá trình hoàn thiện tổ chức nhà nước theo hướng tinh, gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với Hiến pháp và thể chế chính trị, chứ không phải là sự thay đổi thể chế chính trị như các thế lực thù địch xuyên tạc. Việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái này không chỉ là vấn đề tư tưởng, lý luận mà còn là hành động để bảo vệ tiến trình cải cách chiến lược, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân - trụ cột quan trọng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
Thiếu tá, ThS Nguyễn Viết Tiến
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
[1]. Quyết liệt đổi mới, cải cách toàn diện bộ máy của hệ thống chính trị: tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, .
[2]. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 21, tr. 257.
[3]. Lê Văn Hưu (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tập 2, tr. 492.
[4]. Hồ Chí Minh toàn tập (2011), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 5, tr.304.
[5]. Hồ Chí Minh toàn tập (2011), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 6, tr.154.
[6]. Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị Chính phủ với các địa phương về tăng trưởng kinh tế, https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc/thu-tuong-pham-minh-chinh-chu-tri-hoi-nghi-chinh-phu-voi-cac-dia-phuong-ve-tang-truong-kinh-te-816552.
[7]. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương cấp vùng ở Pháp - hàm ý cho Việt Nam,
[8]. Kinh nghiệm tinh gọn bộ máy nhìn từ Nhật Bản, .
[9]. Cải cách tổ chức, bộ máy hành chính - Kinh nghiệm của Trung Quốc, https://www.xaydungdang.org.vn/quoc-te/cai-cach-to-chuc-bo-may-hanh-chinh-kinh-nghiem-cua-trung-quoc-12069.
[10]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.174.
[11]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.100.
[12]. Đàm Bích Hiên (2025), "Những thành tựu nổi bật trong công tác cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam từ thời kỳ đổi mới đến nay", Tạp chí Tổ chức Nhà nước điện tử, ngày 10/12/2022.
[13]. Toàn Thắng, Thúc đẩy triển khai hiệu quả Đề án đầu tư xây dựng ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội, https://baochinhphu.vn/thuc-day-trien-khai-hieu-qua-de-an-dau-tu-xay-dung-it-nhat-1-trieu-can-ho-nha-o-xa-hoi-102240222105703459.htm
[14]. Bộ Chính trị quyết định miễn học phí cho học sinh từ mầm non đến hết THPT công lập,
[15]. Thành Chung (2025), Vụ trưởng, chánh văn phòng Bộ Nội vụ cùng gần 180 cán bộ xin nghỉ trước tuổi,
[16]. Lê Thúy (2025), 1.000 cán bộ, công chức Bộ Nông nghiệp và Môi trường xin nghỉ sớm, có nhiều lãnh đạo, https://nld.com.vn/1000-can-bo-cong-chuc-bo-nong-nghiep-va-moi-truong-xin-nghi-som-co-nhieu-lanh-dao-196250312083251958.htm