TNV - Vừa qua tại trụ sở Cục Sở hữu trí tuệ, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) và Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam phối hợp tổ chức Hội thảo “Xây dựng chính sách SHTT cho các trường đại học và viện nghiên cứu”. Hội thảo nằm trong các hoạt động thuộc Dự án “Khởi tạo môi trường sở hữu trí tuệ” do Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO hỗ trợ nhằm nâng cao năng lực sáng tạo, quản lý và thương mại hóa công nghệ của các nước đang phát triển và kém phát triển đã được triển khai tại một số nước trong khu vực như Malaysia, Thái Lan, Phillipin, Ấn Độ, Iran, Mông Cổ.
Toàn cảnh hội thảo
Hội thảo tổ chức nhằm mục đích giúp cho các trường đại học, viện nghiên cứu tăng cường năng lực nội tại trong việc xác lập quyền SHTT và chuyển giao công nghệ trong thời đại ngày nay. Đồng thời, cung cấp cho các đại biểu các kiến thức trong quản trị tài sản trí tuệ, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, thương mại hóa sản phẩm, kết nối giữa viện/trường và các tổ chức khác và xây dựng một chính sách sở hữu trí tuệ phù hợp cho tổ chức của mình.
Tại Việt Nam, Dự án đang ở giai đoạn khởi động và sẽ thực hiện trong 5 năm 2018-2022. Trong khuôn khổ Dự án, sẽ hình thành một mạng lưới theo mô hình “trục xoay và nan hoa”, gồm các tổ chức hỗ trợ (trục xoay) và các trường đại học, viện nghiên cứu (nan hoa). Trục xoay đóng vai trò hỗ trợ và điều phối các nan hoa trong quá trình phát triển công nghệ, xác lập quyền sở hữu trí tuệ, cụ thể là bảo hộ sáng chế đối với các công nghệ có tiềm năng và tiếp đó, thương mại hóa các sáng chế đó.
Nội dung của Dự án bao gồm đào tạo cán bộ cho mạng lưới, thiết lập liên kết giữa các trường đại học, viện nghiên cứu với nhau và với các nhà đầu tư, góp phần hỗ trợ thương mại hóa sáng chế.Có thể thấy, trong các năm qua, trường đại học và viện nghiên cứu của Việt Nam đã tích lũy được năng lực, đóng góp nhiều cho sự phát triển KH&CN của Việt Nam, các công bố quốc tế, đặc biệt các bài báo trên tạp chí ISI cũng đã tăng nhanh.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, một “điểm yếu” của viện nghiên cứu, trường đại học Việt Nam là gần như chưa cụ thể hóa các kết quả, chưa biến các kết quả thành tài sản. Hiện trạng này thể hiện thông qua số lượng đăng ký sáng chế hàng năm ở Cục SHTT với hơn 200-300 đơn đăng ký sáng chế của người Việt Nam, điều đáng nói ở đây, các sáng chế gia tăng chủ yếu ở khu vực tư nhân và các chủ thể khác. Thêm một thực tế, các trường đại học, viện nghiên cứu đang gặp khó khăn và thiếu kinh nghiệm với một hợp đồng nghiên cứu cùng với doanh nghiệp nên lập các điều khoản về SHTT như thế nào…và gần như bỏ qua điều khoản này.
Nắm bắt được tình hình trên , Bộ KH&CN khẳng định sẽ tập trung nguồn lực để Mạng lưới trung tâm SHTT và chuyển giao công nghệ trong các viện nghiên cứu, trường đại học vận hành ổn định, giúp cho các trường đại học,viện nghiên cứu tăng cường năng lực nội tại trong việc xác lập quyền SHTT và chuyển giao công nghệ, đặc biệt là chú trọng vào việc tăng số lượng sáng chế của Việt Nam cũng như thúc đẩy các hoạt động chuyển giao công nghệ, thương mại hóa tài sản trí tuệ.
Sự gia tăng số lượng sáng chế của người Việt Nam và tăng cường hoạt động chuyển giao công nghệ sẽ giúp gia tăng thành quả sáng tạo và chỉ số lan tỏa tri thức, đó là những đóng góp tích cực để cải thiện. Đồng tình với quan điểm và cam kết hành động của Bộ KH&CN cho hoạt động SHTT và ĐMST, ông Ashley Stevens - Chủ tịch Focus IP Group, giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Osaka, Nhật Bản, cho rằng, tuy Việt Nam đi sau một số quốc gia khác về kinh nghiệm, về chuyển giao công nghệ và SHTT, nhưng khi đang ở giai đoạn đầu sẽ có cơ hội xây dựng hệ thống SHTT một cách hiệu quả. “Nếu coi SHTT là sáng chế, là “công cụ” cho mọi hoạt động thì “công cụ” ở đây chính là thể hiện bản chất của hoạt động SHTT. Ông Richard S. Cahoon cũng ví von về hình ảnh “chiếc búa” quyền lực có thể xây dựng những gì chúng ta cần xây lại, ở đây chính là phát triển kinh tế, việc làm, công nghệ mới…chính vì vậy, “công cụ” cần phải được dùng đúng lúc”.
Theo bà Lien Verbauwhede Koglin - Cố vấn Phòng hỗ trợ khởi nghiệp và doanh nghiệp nhỏ và vừa, WIPO, trong bối cảnh mới, hướng sự tập trung toàn cầu kết nối viện, trường thúc đẩy, chia sẻ kiến thức thực tiễn, rời khỏi phòng thí nghiệm đi đến thực tế, chọn tình huống thực tế để nghiên cứu. Chính vì vậy, SHTT đang là vấn đề cấp bách tại Việt Nam, đây là điểm sáng trong phát triển kinh tế của quốc gia và tạo ra GDP ngày càng lớn. Đặc biệt, từ Chính phủ đến các Bộ, ngành địa phương đều cam kết hỗ trợ mạnh mẽ trong việc xây dựng một hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
Bà Lien Verbauwhede Koglin, Cố vấn Phòng hỗ trợ khởi nghiệp và doanh nghiệp nhỏ và vừa, WIPO phát biểu tại hội thảo.
“WIPO đã đưa ra một loạt chương trình giúp các trường đại học có chiến lược SHTT tốt nhất, thúc đẩy nhanh quá trình nghiên cứu, đóng góp vào phát triển bền vững của Quốc gia, nâng cao nhận thức về SHTT, khuyến khích viện, trường thúc đẩy kinh doanh, hiện đại hóa SHTT để phát triển KT-XH địa phương”, bà Lien Verbauwhede Koglin cho biết.
Tại hội thảo, các chuyên gia đã trình bày các nội dung chính như: Bối cảnh chung về SHTT và chuyển giao công nghệ trong các trường đại học, viện nghiên cứu; Chính sách của cơ quan SHTT; Các điều kiện tiên quyết cần thiết cho chuyển giao bí quyết thành công và thương mại hóa tài sản trí tuệ; Các yếu tố quan trọng của nền tảng chính sách SHTT; Chuyển giao công nghệ dựa trên SHTT: quản trị, quản lý, hoạt động và tài trợ; Các chính sách SHTT cần thiết; Cơ chế thực thi chính sách SHTT; Khuyến khích cho nhà nghiên cứu và nhân viên tổ chức quản lý SHTT; Thảo luận bàn tròn: Hướng đi của dự án Khởi tạo môi trường sở hữu trí tuệ tại Việt Nam.
Bích Ngọc - Huy Hoàng