1. Đặt vấn đề
Trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm công tác phòng, chống lãng phí, thể hiện qua nhiều nghị quyết, chỉ thị và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Bước vào giai đoạn phát triển mới, với khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng, công tác này không chỉ là nhiệm vụ thường xuyên mà đã trở thành một mệnh lệnh cấp bách từ chính cuộc sống. Bởi lãng phí, dù ở bất kỳ hình thức nào, không chỉ gây thất thoát nguồn lực vật chất, thời gian, tài nguyên mà còn làm xói mòn niềm tin của nhân dân, triệt tiêu động lực và cơ hội phát triển. Để tích tụ mọi nguồn lực, khơi dậy sức mạnh toàn dân tộc, đưa đất nước vững bước tiến lên, chống lãng phí phải trở thành hành động quyết liệt, trách nhiệm và văn hóa của mỗi cá nhân, tổ chức.
2. Nội dung nghiên cứu
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo tác hại nghiêm trọng của lãng phí và kêu gọi toàn dân đấu tranh không khoan nhượng. Thấm nhuần tư tưởng đó, Đảng ta xác định chống lãng phí là nhiệm vụ phức tạp, cấp thiết và lâu dài, đòi hỏi sự kiên quyết, bền bỉ, có trọng tâm, trọng điểm trong hành động của cả hệ thống chính trị. Đảng chỉ rõ: "Phòng, chống tham nhũng, lãng phí là công việc khó khăn, phức tạp, là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" [1]. Thực tế qua gần 40 năm đổi mới cho thấy, lãng phí là một rào cản lớn, làm tiêu hao tài nguyên, tài sản quốc gia và nhân dân, bào mòn uy tín của Đảng và Nhà nước. Do đó, chống lãng phí là yêu cầu bức thiết, là mệnh lệnh của sự phát triển.
2.1. Lãng phí - bóng ma ám ảnh sự phát triển của đất nước
Trong bối cảnh đất nước đổi mới, hội nhập và phát triển mạnh mẽ, bên cạnh những thành tựu đáng tự hào, tình trạng lãng phí nổi lên như một thách thức nhức nhối, một "căn bệnh" dai dẳng gây tổn hại sâu sắc. Dù khái niệm lãng phí không mới, nhưng mức độ nghiêm trọng và sự hiện diện đa dạng, tinh vi của nó trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội dường như vẫn chưa được nhận thức đầy đủ. Lãng phí len lỏi từ các vấn đề lớn như quy hoạch treo kéo dài, dự án đầu tư công thiếu hiệu quả, thất thoát trong quản lý đất đai, khai thác tài nguyên bừa bãi, cho đến những hành vi tưởng chừng nhỏ nhặt trong đời sống thường nhật: sử dụng điện, nước hoang phí, vứt bỏ thức ăn thừa, mua sắm chạy theo trào lưu, tiêu dùng không cần thiết. Tất cả những biểu hiện này, dù lớn hay nhỏ, đang cộng hưởng lại, tạo thành một lực cản vô hình nhưng cực kỳ lớn, bào mòn nguồn lực và kìm hãm nghiêm trọng con đường phát triển bền vững của quốc gia.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, người luôn nêu cao tấm gương đạo đức cách mạng "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư", đã sớm nhận diện và cảnh báo về tác hại của lãng phí. Người coi lãng phí là một trong ba thứ "giặc nội xâm" nguy hiểm, ngang hàng với tham ô và quan liêu. Người chỉ rõ: "Tham ô là trộm cắp. Lãng phí tuy không lấy của công đút túi, song kết quả cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ. Có khi tai hại hơn nạn tham ô" [2]; Người nhiều lần nhấn mạnh "Phải quý trọng của công: Tất cả cái ăn, cái mặc, cái dùng của các cô, các chú là mồ hôi nước mắt của đồng bào. Phải tiết kiệm, giữ gìn, không được lãng phí [3]; "Tham ô, lãng phí, quan liêu là một thứ "giặc ở trong lòng". Nếu chiến sĩ và nhân dân ra sức chống giặc ngoại xâm mà quên chống giặc nội xâm, như thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của mình. Vì vậy, chiến sĩ và nhân dân phải hăng hái tham gia phong trào ấy"[4]. Lời dạy của Bác không chỉ mang giá trị lịch sử mà còn vẹn nguyên tính thời sự sâu sắc trong bối cảnh hiện nay. Lãng phí không đơn thuần là sự thất thoát về tiền bạc, tài sản, mà còn là sự phung phí thời gian, công sức, tài nguyên thiên nhiên, cơ hội phát triển và đặc biệt là làm xói mòn lòng tin của nhân dân. Thực tế cho thấy, lãng phí đang hiện hữu dưới nhiều hình thức, ở nhiều cấp độ và trong nhiều lĩnh vực:
Lãng phí nguồn lực công: Đây là lĩnh vực gây bức xúc lớn trong dư luận. Hàng loạt dự án đầu tư công hàng nghìn tỷ đồng chậm tiến độ, đội vốn, kém hiệu quả hoặc thậm chí "đắp chiếu", gây thất thoát ngân sách nhà nước khổng lồ. Tình trạng quy hoạch treo, quy hoạch không khả thi, điều chỉnh quy hoạch tùy tiện khiến hàng nghìn hécta đất đai bị bỏ hoang hoặc sử dụng sai mục đích. Tài sản công như trụ sở, xe công, trang thiết bị được mua sắm, sử dụng lãng phí, kém hiệu quả, thậm chí phục vụ cho lợi ích cá nhân. Thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp, cơ chế "xin-cho" vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi, gây lãng phí thời gian, công sức và tiền bạc của người dân, doanh nghiệp, đồng thời tạo mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng, tiêu cực.
Lãng phí trong sản xuất, kinh doanh: Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước, hoạt động kém hiệu quả, quản trị yếu kém, đầu tư dàn trải, sai lĩnh vực, gây thua lỗ, thất thoát vốn. Việc áp dụng công nghệ lạc hậu, quy trình sản xuất không tối ưu dẫn đến tiêu hao nhiều nguyên liệu, năng lượng, phát sinh nhiều phế thải, gây ô nhiễm môi trường. Tình trạng khai thác tài nguyên khoáng sản bừa bãi, thiếu quy hoạch, không chú trọng chế biến sâu, chủ yếu xuất khẩu thô cũng là một dạng lãng phí tài nguyên nghiêm trọng, làm cạn kiệt nguồn lực quốc gia.
Lãng phí trong đời sống xã hội và tiêu dùng: Tư duy tiêu dùng chạy theo hình thức, phô trương, "con gà tức nhau tiếng gáy" dẫn đến việc mua sắm những vật dụng không thực sự cần thiết, nhanh chóng lỗi mốt và bị vứt bỏ. Việc tổ chức lễ hội, cưới hỏi, ma chay còn nặng về hình thức, tốn kém, gây lãng phí tiền bạc, thời gian. Đặc biệt, lãng phí lương thực, thực phẩm đang là vấn đề báo động. Từ các nhà hàng, quán ăn, đám tiệc đến bữa cơm gia đình, một lượng lớn thức ăn bị bỏ đi trong khi nhiều nơi trên thế giới và ngay cả trong nước vẫn còn người dân thiếu đói. Thói quen sử dụng điện, nước, các nguồn năng lượng khác một cách hoang phí trong sinh hoạt hàng ngày cũng góp phần làm cạn kiệt tài nguyên và gia tăng chi phí.
Lãng phí nguồn nhân lực: Đây là dạng lãng phí vô hình nhưng tác động sâu sắc và lâu dài. Tình trạng "chảy máu chất xám", không trọng dụng nhân tài, bố trí công việc không đúng năng lực, sở trường khiến nguồn lực con người quý giá không được phát huy tối đa. Hệ thống giáo dục, đào tạo còn có những bất cập, chưa thực sự gắn với nhu cầu xã hội, dẫn đến tình trạng sinh viên ra trường thất nghiệp hoặc phải làm trái ngành, gây lãng phí thời gian, tiền bạc của gia đình và xã hội.
Lãng phí thời gian: Đây không còn là một thói quen cá nhân đơn thuần, mà đã trở thành một vấn nạn mang tính thời đại. Một mặt, đó là sự trì trệ, sa đà vào các hình thức giải trí thụ động, dễ dãi khiến tư duy trì trệ và mục tiêu sống phai nhạt. Những cá nhân này đang tự nguyện đứng ngoài dòng chảy phát triển, chấp nhận bị bỏ lại phía sau. Mặt khác, nguy hiểm không kém, là lối sống "bận rộn" một cách hời hợt, chạy theo các mục tiêu ngắn hạn, làm "nhiều việc" nhưng không có chiều sâu. Đây là kiểu lãng phí tinh vi, tạo ra ảo giác về sự năng suất nhưng thực chất không tích lũy được giá trị bền vững nào. Cả hai thái cực đều là biểu hiện của việc đánh mất khả năng làm chủ bản thân. Đặc biệt, tình trạng lãng phí thời gian của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức hiện nay là một thực trạng đáng báo động. Biểu hiện phổ biến là việc sử dụng giờ hành chính không hiệu quả: Đi muộn về sớm, làm việc riêng, lướt mạng xã hội, đọc báo... Bên cạnh đó, các cuộc họp kéo dài, không thực chất và thủ tục hành chính rườm rà cũng góp phần gây lãng phí. Hậu quả của tình trạng này là làm giảm năng suất lao động, gây trì trệ trong giải quyết công việc cho người dân và doanh nghiệp, làm xói mòn lòng tin của xã hội và gây lãng phí lớn cho ngân sách nhà nước.
Lãng phí dù ở hình thức nào cũng đều để lại những hậu quả nặng nề. Về kinh tế, nó làm thất thoát nguồn lực, giảm hiệu quả đầu tư, tăng nợ công, bào mòn sức cạnh tranh của nền kinh tế, bỏ lỡ các cơ hội phát triển. Về môi trường, nó làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên không thể tái tạo, gia tăng ô nhiễm, gây mất cân bằng sinh thái, góp phần vào biến đổi khí hậu toàn cầu. Về xã hội, lãng phí, đặc biệt là lãng phí của công, gây bất bình trong nhân dân, làm sâu sắc thêm khoảng cách giàu nghèo, xói mòn lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức, lối sống và văn hóa dân tộc. Nhìn xa hơn, lãng phí làm suy yếu tiềm lực quốc gia, ảnh hưởng đến an ninh kinh tế, an ninh xã hội và sự phát triển bền vững của đất nước.
2.2. Nhận diện căn nguyên của "căn bệnh" lãng phí
Để "chẩn đoán" và "điều trị" hiệu quả "căn bệnh" lãng phí, việc phân tích sâu để nhận diện đúng các căn nguyên gốc rễ là tối quan trọng. Lãng phí không phải hiện tượng ngẫu nhiên mà là hệ quả cộng hưởng của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan.
Một là, xuất phát từ nhận thức, tư duy và ý thức trách nhiệm.
Nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc về tác hại của lãng phí: Đây là nguyên nhân gốc rễ và phổ biến nhất. Nhiều người, kể cả cán bộ, đảng viên, vẫn chưa thấy hết được sự nguy hại nhiều mặt của lãng phí. Họ có thể lên án mạnh mẽ hành vi tham ô, tham nhũng nhưng lại xem nhẹ, thậm chí tặc lưỡi cho qua các biểu hiện lãng phí, nhất là khi nó không trực tiếp ảnh hưởng đến lợi ích cá nhân. Sự vô cảm, thờ ơ trước lãng phí của công, lãng phí tài nguyên là biểu hiện rõ rệt của sự thiếu hụt nhận thức này. Tư tưởng "cha chung không ai khóc", thiếu trách nhiệm với tài sản công: Tâm lý coi "của công" là "của chùa", không phải của mình nên sử dụng không cần tiết kiệm, thậm chí phung phí, vẫn còn tồn tại khá phổ biến. Trách nhiệm của người đứng đầu, của từng cá nhân trong việc quản lý, sử dụng tài sản công, ngân sách nhà nước chưa được đề cao và thực thi nghiêm túc. Khi xảy ra lãng phí, việc quy trách nhiệm thường khó khăn, xử lý chưa đủ sức răn đe.
Bệnh thành tích, hình thức, phô trương: Vì chạy theo thành tích ảo, muốn báo cáo những con số đẹp, nhiều địa phương, đơn vị đã đầu tư xây dựng những công trình hoành tráng nhưng không thực sự cần thiết, không phát huy hiệu quả. Việc tổ chức các sự kiện, lễ hội rình rang, tốn kém cũng thường xuất phát từ tâm lý muốn phô trương, đánh bóng tên tuổi thay vì chú trọng vào ý nghĩa thực chất.
Tư duy nhiệm kỳ: Một số cán bộ lãnh đạo chỉ quan tâm đến lợi ích và thành tích trong nhiệm kỳ của mình, dẫn đến những quyết sách đầu tư ngắn hạn, dàn trải, thiếu tầm nhìn dài hạn, gây lãng phí nguồn lực và để lại gánh nặng cho thế hệ sau.
Thói quen tiêu dùng lãng phí, tâm lý đám đông: Trong xã hội, thói quen mua sắm quá mức cần thiết, chạy theo mốt, sử dụng đồ đạc không bền, dễ dàng vứt bỏ khi chưa hỏng... đã trở nên khá phổ biến, được thúc đẩy bởi quảng cáo và tâm lý đám đông. Sự sĩ diện, muốn thể hiện đẳng cấp cũng khiến nhiều người chi tiêu xa hoa, lãng phí trong các dịp lễ Tết, cưới hỏi, ma chay.
Thiếu ý thức tiết kiệm trong sinh hoạt hàng ngày: Việc sử dụng điện, nước, giấy, thực phẩm... một cách hoang phí trong gia đình, công sở, trường học tưởng chừng nhỏ nhặt nhưng khi cộng lại sẽ thành một con số khổng lồ, gây lãng phí tài nguyên và tiền bạc.
Hai là, xuất phát từ cơ chế, chính sách và công tác quản lý, thực thi.
Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, còn kẽ hở, chế tài xử lý chưa đủ mạnh: Mặc dù đã có Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan, nhưng hệ thống này vẫn còn những điểm chưa đồng bộ, chồng chéo, khó áp dụng. Các quy định về định mức, tiêu chuẩn, chế độ trong quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản công còn có những bất cập, chưa theo kịp thực tiễn. Quan trọng hơn, chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí còn nhẹ, chưa đủ sức răn đe, ngăn ngừa. Việc xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra lãng phí tại cơ quan, đơn vị mình quản lý còn chưa nghiêm.
Công tác quy hoạch, kế hoạch còn yếu kém, thiếu tầm nhìn chiến lược: Chất lượng công tác lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch, kế hoạch, dự án đầu tư còn nhiều hạn chế. Tình trạng quy hoạch treo, quy hoạch thiếu tính khả thi, dự án đầu tư dàn trải, không đồng bộ, thiếu hiệu quả là minh chứng rõ nét. Việc điều chỉnh quy hoạch, dự án một cách tùy tiện, thiếu cơ sở khoa học cũng góp phần gây lãng phí lớn.
Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát chưa thường xuyên, hiệu quả thấp: Hoạt động kiểm tra, thanh tra, kiểm toán việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí tuy đã được tăng cường nhưng vẫn còn những hạn chế. Việc phát hiện vi phạm đôi khi còn chậm, xử lý chưa triệt để. Vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân đối với việc chống lãng phí có lúc, có nơi còn hình thức, hiệu quả chưa cao.
Tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm là "bà đỡ" cho lãng phí: Tham nhũng và lãng phí thường đi đôi với nhau, có mối quan hệ cộng sinh. Những dự án đầu tư kém hiệu quả, những quyết định mua sắm lãng phí thường ẩn chứa đằng sau đó là hành vi tham nhũng, vụ lợi, lợi ích nhóm. Việc cố tình đưa ra các quyết sách sai lầm, gây lãng phí để trục lợi cá nhân, phe nhóm là biểu hiện nguy hiểm, làm suy yếu nghiêm trọng nguồn lực quốc gia.
Thiếu minh bạch, công khai và trách nhiệm giải trình: Việc công khai, minh bạch thông tin về quy hoạch, kế hoạch, dự án đầu tư, mua sắm công, sử dụng ngân sách, tài sản công còn hạn chế. Khi thiếu thông tin, người dân và xã hội khó có thể thực hiện quyền giám sát. Cơ chế trách nhiệm giải trình của các cơ quan, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền khi để xảy ra lãng phí còn chưa rõ ràng và thực thi chưa nghiêm.
Ba là, xuất phát từ văn hóa, thói quen, tập quán.
Ảnh hưởng của tâm lý sĩ diện, hình thức trong văn hóa ứng xử: Mong muốn "bằng bạn bằng bè", giữ thể diện, không muốn bị coi là thua kém người khác đã ăn sâu vào tâm lý một bộ phận người dân, dẫn đến việc chi tiêu tốn kém, lãng phí trong các dịp hiếu, hỷ, lễ Tết.
Một số tập quán, lễ nghi còn rườm rà, tốn kém: Mặc dù đã có nhiều nỗ lực vận động xây dựng nếp sống văn minh, nhưng một số tập quán lạc hậu, nghi lễ rườm rà trong ma chay, cưới hỏi, lễ hội vẫn còn tồn tại, gây lãng phí thời gian, tiền bạc và ảnh hưởng đến đời sống người dân.
Việc nhận diện rõ ràng, khách quan các nguyên nhân gây ra lãng phí là tiền đề quan trọng để đề ra những giải pháp căn cơ, đồng bộ và hiệu quả, nhằm từng bước đẩy lùi "căn bệnh" này ra khỏi đời sống xã hội.
2.3. Nhận diện, đấu tranh với các quan điểm sai trái, lệch lạc về lãng phí
Để cuộc đấu tranh chống lãng phí đi vào thực chất, một nhiệm vụ quan trọng là phải nhận diện và kiên quyết đấu tranh, bác bỏ những quan điểm, luận điệu sai trái, lệch lạc đang tồn tại trong xã hội nhằm bao che, biện minh hoặc xem nhẹ tác hại của lãng phí.
Một trong những luận điệu ngụy biện phổ biến nhất là tư duy "thà lãng phí còn hơn bỏ sót" hay "đầu tư phải đi trước một bước", thường được dùng để biện minh cho các dự án quy hoạch, xây dựng hoành tráng nhưng thiếu tính khả thi, gây thất thoát khổng lồ. Đây là sự nhầm lẫn tai hại giữa tầm nhìn chiến lược với sự duy ý chí, thiển cận, lấy sự phô trương bề nổi che lấp cho năng lực hoạch định yếu kém. Bên cạnh đó, còn tồn tại quan điểm nguy hiểm khi cố tình tách rời, thậm chí đối lập lãng phí với tham nhũng, cho rằng "lãng phí là chuyện nhỏ", không nghiêm trọng bằng tham nhũng.
Cần phải khẳng định rằng, tham nhũng và lãng phí là hai mặt của cùng một vấn đề, là đôi bạn đồng hành, có quan hệ cộng sinh. Lãng phí thường là hệ quả trực tiếp của tham nhũng, lợi ích nhóm; và ngược lại, sự lãng phí tràn lan chính là mảnh đất màu mỡ dung dưỡng, che đậy cho các hành vi tham nhũng, tiêu cực. Việc xem nhẹ lãng phí là tự làm suy yếu cuộc đấu tranh chống "giặc nội xâm", đi ngược lại lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Việc đập tan những rào cản tư tưởng này là tiền đề bắt buộc để thống nhất ý chí và hành động trong toàn xã hội.
2.4. Chống lãng phí - mệnh lệnh từ cuộc sống, trách nhiệm của toàn dân
Trước những tác hại khôn lường và căn nguyên phức tạp của tình trạng lãng phí, việc quyết liệt thực hành tiết kiệm, chống lãng phí không chỉ là yêu cầu đạo đức, trách nhiệm chính trị mà đã trở thành một mệnh lệnh cấp bách từ chính cuộc sống, một đòi hỏi sống còn cho sự phát triển bền vững của đất nước. "Coi phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc" [5]. Đây là cuộc đấu tranh cam go, lâu dài, đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng lòng, chung sức của toàn xã hội và ý thức tự giác của mỗi người dân.
Lịch sử đang trao cho dân tộc ta cơ hội để viết nên những trang sử mới hào hùng. Nhưng vận hội không chờ đợi, và mọi nguồn lực phung phí hôm nay chính là tương lai bị đánh cắp của ngày mai. Vì vậy, để nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, khơi thông mọi nguồn lực cho sự phát triển, cuộc chiến chống lãng phí phải được đẩy lên một tầm cao mới. Cần biến cuộc đấu tranh này từ những chỉ thị, nghị quyết thành mệnh lệnh của trái tim và khối óc, thành hành động tự giác và một nét văn hóa ứng xử cao đẹp của mỗi người Việt Nam trong thời đại mới. Để thực hiện sứ mệnh đó, cần triển khai đồng bộ các giải pháp cơ bản sau:
Một là, nâng cao nhận thức, xây dựng văn hóa tiết kiệm.
Đây là giải pháp nền tảng, mang tính chất quyết định cho sự thành bại của cuộc chiến chống lãng phí chính là việc xây dựng và củng cố ý thức tiết kiệm trong toàn xã hội. Điều cốt lõi là phải làm cho mỗi cán bộ, đảng viên và mọi người dân thấu hiểu sâu sắc rằng, tiết kiệm không đơn thuần là một chính sách quốc gia hay một nghĩa vụ pháp lý, mà còn là một biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước - thể hiện qua việc trân trọng và bảo vệ tài sản, tài nguyên quốc gia. Hơn thế nữa, tiết kiệm còn là thước đo của văn minh, là nền tảng đạo đức và là một phần không thể thiếu của lối sống văn hóa, tiến bộ, thể hiện sự tôn trọng giá trị lao động và thành quả xã hội. Để đạt được mục tiêu này, công tác tuyên truyền và giáo dục cần được đẩy mạnh một cách toàn diện và sáng tạo. Phải tận dụng tối đa sức mạnh tổng hợp của các phương tiện thông tin đại chúng - từ báo chí, truyền hình, phát thanh đến các nền tảng mạng xã hội đang phát triển mạnh mẽ. Nội dung tuyên truyền cần đa dạng hóa hình thức thể hiện như tin bài, phóng sự, phim tài liệu, tọa đàm, đồ họa thông tin, các chiến dịch truyền thông mạng xã hội... để phổ biến sâu rộng tinh thần và nội dung cốt lõi của Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí cùng các chủ trương, quy định liên quan của Đảng và Nhà nước. Các buổi sinh hoạt chi bộ, đoàn thể, hội nghị cán bộ công chức, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật cũng cần lồng ghép hiệu quả nội dung này. Quan trọng là phải phân tích cặn kẽ, chỉ rõ những tác hại khôn lường của lãng phí trên mọi phương diện - kinh tế, xã hội, môi trường, uy tín quốc gia - đồng thời làm nổi bật những lợi ích thiết thực, lâu dài mà tiết kiệm mang lại cho đất nước, cộng đồng và chính bản thân mỗi gia đình. Đặc biệt, cần nghiên cứu và chính thức đưa nội dung giáo dục về ý thức tiết kiệm, bảo vệ tài nguyên và môi trường vào chương trình giảng dạy ở mọi cấp học, từ mầm non đến đại học, xem đây là một phần quan trọng của giáo dục công dân và đạo đức.
Song song với tuyên truyền, việc xây dựng và nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến là vô cùng cần thiết. Cần có cơ chế kịp thời phát hiện, biểu dương và khen thưởng xứng đáng những tập thể, cá nhân có sáng kiến hay, cách làm tốt và đạt thành tích xuất sắc trong thực hành tiết kiệm, đấu tranh chống lãng phí. Việc tôn vinh những tấm gương sống giản dị, tiết kiệm trong đời thường, không phân biệt địa vị, chức vụ, sẽ có sức lan tỏa mạnh mẽ, tạo hiệu ứng tích cực trong cộng đồng. Cần phát động sâu rộng các phong trào thi đua thực hành tiết kiệm trong mọi lĩnh vực, từ cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đến trường học và khu dân cư, với những mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể, có thể đo lường được (ví dụ: tiết kiệm điện, nước, văn phòng phẩm, nhiên liệu, thời gian...). Xây dựng bộ tiêu chí rõ ràng về tiết kiệm để làm căn cứ đánh giá kết quả thi đua và xét khen thưởng định kỳ, đột xuất.
Vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, là yếu tố then chốt trong chống lãng phí. Họ phải đi đầu thực hành tiết kiệm một cách thực chất, "nói đi đôi với làm". Sự gương mẫu này tạo sức lan tỏa mạnh mẽ, củng cố niềm tin và là động lực để nhân dân noi theo. Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí phải là tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá, bổ nhiệm cán bộ. Cần đấu tranh với lối sống xa hoa, phô trương, lên án tiêu dùng hoang phí; đồng thời vận động nhân dân thực hiện nếp sống văn minh, tiết kiệm trong việc cưới, tang, lễ hội, bài trừ hủ tục tốn kém.
Hai là, hoàn thiện thể chế, chính sách, siết chặt kỷ luật, kỷ cương.
Thể chế và chính sách đóng vai trò là công cụ nền tảng, có sức mạnh quyết định trong việc phòng ngừa, phát hiện và xử lý hiệu quả các hành vi lãng phí. Do đó, nhiệm vụ cấp thiết là phải liên tục rà soát, đánh giá để sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện một cách toàn diện hệ thống pháp luật liên quan đến thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Mục tiêu là xây dựng một khung pháp lý đồng bộ, thống nhất, có tính khả thi cao và luôn bám sát, phản ánh đúng thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội đang thay đổi. Trọng tâm là việc sửa đổi, hoàn thiện Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cần quy định cụ thể, rõ ràng hơn nữa về trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân, đặc biệt nhấn mạnh và cá thể hóa trách nhiệm giải trình của người đứng đầu cơ quan, đơn vị khi để xảy ra lãng phí. Song song đó, phải khẩn trương bổ sung, hoàn thiện hệ thống định mức, tiêu chuẩn, chế độ trong quản lý và sử dụng các nguồn lực công như ngân sách nhà nước, tài sản công, đầu tư công, tài nguyên thiên nhiên... theo nguyên tắc chặt chẽ, tiết kiệm tối đa và nâng cao hiệu quả sử dụng. Mọi định mức, tiêu chuẩn này phải được công khai, minh bạch hóa hoàn toàn để tạo điều kiện cho việc giám sát.
Để đảm bảo pháp luật được thực thi nghiêm minh, cần xây dựng và vận hành các cơ chế kiểm soát quyền lực thực sự hiệu quả. Phải tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực thi công vụ của cán bộ, công chức, đặc biệt tập trung vào những lĩnh vực nhạy cảm, tiềm ẩn nguy cơ cao về lãng phí và tham nhũng như quản lý đất đai, tài nguyên khoáng sản, đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm công và quản lý hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời, cần nâng cao căn bản chất lượng công tác quy hoạch và kế hoạch. Đổi mới tư duy, phương pháp luận trong việc lập, thẩm định và phê duyệt các quy hoạch, kế hoạch, dự án đầu tư phải theo hướng khoa học, bài bản, có tầm nhìn chiến lược dài hạn, gắn chặt với khả năng cân đối nguồn lực thực tế và đánh giá đầy đủ hiệu quả về kinh tế - xã hội cũng như tác động môi trường. Phải kiên quyết loại bỏ ngay từ đầu những quy hoạch treo, dự án đầu tư không khả thi, kém hiệu quả, chấm dứt triệt để tình trạng đầu tư dàn trải, manh mún, gây lãng phí nguồn lực quốc gia.
Cần đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán thường xuyên và đột xuất về trách nhiệm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí tại mọi cơ quan, đơn vị. Kết luận phải chỉ rõ sai phạm, xác định đúng trách nhiệm và kiến nghị xử lý nghiêm minh, kịp thời. Phát huy tối đa vai trò giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, báo chí và nhân dân, với cơ chế hiệu quả để tiếp nhận, xử lý phản ánh, tố cáo lãng phí. Mọi vi phạm phải bị xử lý nghiêm khắc, không có vùng cấm hay ngoại lệ, công khai kết quả để răn đe và gắn trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Đồng thời, đẩy mạnh cải cách hành chính, chính phủ số và kiên quyết chống tham nhũng, tiêu cực - gốc rễ của lãng phí.
Minh chứng sống động và quyết liệt cho ý chí này chính là chủ trương sắp xếp lại các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và tinh gọn bộ máy đang được triển khai trên toàn quốc. Đây không chỉ là cuộc cải cách hành chính thuần túy, mà là giải pháp chiến lược nhằm triệt tiêu lãng phí từ gốc rễ. Việc sáp nhập giúp phá vỡ sự cồng kềnh, chồng chéo, giảm đáng kể gánh nặng biên chế, các chức danh lãnh đạo và bộ máy trung gian. Nguồn lực khổng lồ từ ngân sách chi thường xuyên, cùng với tài sản công dôi dư như trụ sở, xe ô tô, được giải phóng để tập trung cho đầu tư phát triển và an sinh xã hội. Đây chính là hành động cải cách thể chế quyết liệt, đồng bộ với việc đẩy mạnh Chính phủ số và cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực, tạo thành một thế trận liên hoàn để loại bỏ tận gốc "căn bệnh" lãng phí, khơi thông nguồn lực cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Ba là, đổi mới quản lý, ứng dụng khoa học công nghệ, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn.
Khoa học công nghệ và đổi mới phương thức quản lý là những giải pháp then chốt để tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn lực, từ đó giảm thiểu lãng phí trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Việc hiện đại hóa quản lý nhà nước và quản trị doanh nghiệp đóng vai trò tiên quyết. Điều này đòi hỏi việc áp dụng rộng rãi các phương pháp quản lý tiên tiến, sử dụng công cụ đo lường hiệu quả công việc như KPIs, và thực hiện quản lý dựa trên kết quả đầu ra cụ thể. Cần tăng cường mạnh mẽ ứng dụng công nghệ thông tin trong mọi khâu quản lý, điều hành và cung cấp dịch vụ công để nâng cao hiệu quả, giảm chi phí và thời gian. Song song đó, việc đẩy mạnh cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước khỏi các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả là cần thiết để nâng cao năng lực quản trị, tăng sức cạnh tranh và loại bỏ gánh nặng cho ngân sách.
Đồng thời, cần thúc đẩy việc nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ hướng tới tiết kiệm năng lượng và tài nguyên. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ theo hướng sử dụng ít nguyên liệu, năng lượng hơn, áp dụng công nghệ sạch, thân thiện môi trường và giảm thiểu phát thải. Phát triển các nguồn năng lượng tái tạo cũng là một ưu tiên chiến lược. Đặc biệt, việc chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn là xu hướng tất yếu để phát triển bền vững. Thay vì mô hình kinh tế tuyến tính truyền thống (khai thác - sản xuất - tiêu dùng - thải bỏ), kinh tế tuần hoàn tập trung vào việc giảm thiểu khai thác tài nguyên, tối đa hóa tái sử dụng, tái chế sản phẩm và vật liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm và biến chất thải thành nguồn lực mới.
Vệc quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên phải được thực hiện một cách hiệu quả và bền vững. Cần tăng cường công tác điều tra, đánh giá chính xác trữ lượng tài nguyên, làm cơ sở cho việc quy hoạch khai thác, sử dụng một cách khoa học, hợp lý và có tầm nhìn dài hạn. Phải chú trọng đầu tư vào chế biến sâu để nâng cao giá trị gia tăng cho tài nguyên, thay vì xuất khẩu thô. Mọi hành vi khai thác tài nguyên trái phép, gây hủy hoại môi trường phải bị xử lý nghiêm minh. Việc bảo vệ và phát triển bền vững các nguồn tài nguyên trọng yếu như rừng và nước phải được coi là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu.
Bốn là, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội.
Cuộc chiến chống lãng phí không phải là trách nhiệm của riêng bất kỳ cơ quan, tổ chức nào mà là sự nghiệp chung của toàn dân. Do đó, việc khơi dậy tinh thần trách nhiệm và phát huy tối đa vai trò của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng là yếu tố có ý nghĩa sống còn. Cần phải nâng cao và tăng cường hiệu quả vai trò giám sát trực tiếp từ cộng đồng. Phát huy mạnh mẽ chức năng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên như Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, cùng với các Ban thanh tra nhân dân và Ban giám sát đầu tư của cộng đồng tại cơ sở. Các tổ chức này có lợi thế gần dân, sát thực tế, cần tập trung giám sát việc thực hành tiết kiệm và chống lãng phí trong cộng đồng dân cư, đặc biệt là trong việc triển khai các dự án đầu tư công, quản lý và sử dụng đất đai, tài sản công tại địa phương, đảm bảo tính công khai, minh bạch và hiệu quả. Song song đó, cần xây dựng ý thức trách nhiệm sâu sắc cho mỗi công dân. Mỗi người cần nhận thức rõ rằng, thực hành tiết kiệm là nghĩa vụ, bắt đầu từ những hành động cụ thể, dù là nhỏ nhất, trong sinh hoạt hàng ngày của gia đình, tại nơi làm việc và trong các hoạt động cộng đồng. Điều này đòi hỏi sự thay đổi trong thói quen tiêu dùng, chuyển hướng sang lối sống xanh, bền vững hơn, lựa chọn sản phẩm thân thiện môi trường, tiêu dùng một cách có ý thức và trách nhiệm. Quan trọng hơn, mỗi công dân cần phát huy tinh thần làm chủ, tích cực tham gia giám sát, mạnh dạn phát hiện và kịp thời phản ánh, tố giác các hành vi gây lãng phí tài sản công, tài nguyên quốc gia qua các kênh phù hợp. Ngoài ra, cần tạo môi trường thuận lợi để khuyến khích và nhân rộng các sáng kiến, mô hình chống lãng phí từ chính cơ sở. Cần có cơ chế động viên, hỗ trợ kịp thời những ý tưởng sáng tạo, những mô hình hay, cách làm tốt về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí nảy sinh từ trong cộng đồng dân cư, trong các tổ chức xã hội, doanh nghiệp. Việc chia sẻ, lan tỏa và nhân rộng các kinh nghiệm thành công sẽ tạo hiệu ứng tích cực, góp phần đưa cuộc chiến chống lãng phí đi vào chiều sâu và thực chất hơn.
3. Kết luận
Lãng phí gây hậu quả nghiêm trọng, không chỉ là thất thoát kinh tế, tài nguyên mà còn bào mòn đạo đức, phung phí tương lai. Như căn bệnh mãn tính, nó làm suy yếu sức mạnh dân tộc, cản trở mục tiêu phát triển. Vì vậy, chống lãng phí là mệnh lệnh cấp bách, đòi hỏi quyết tâm chính trị cao, giải pháp đồng bộ, kiên trì. Quan trọng nhất là tạo chuyển biến căn bản trong nhận thức, hành động thành ý thức tự giác, nếp sống thường trực của toàn xã hội. Đây là thước đo đạo đức, trách nhiệm. "Mệnh lệnh từ cuộc sống" yêu cầu biến nhận thức thành hành động cụ thể, từ việc nhỏ đến lớn, vì hôm nay và tương lai Việt Nam hùng cường, bền vững.
Nguyễn Vũ Thu Hường, Đỗ Đức Quân, Đào Thị Thanh Hà, Nguyễn Ngọc Bảo Linh - Bệnh viện 354, Tổng cục Hậu cần - Kỹ thuật
Trung tá Nguyễn Quốc Duy - Hệ Đào tạo Sau đại học, Học viện Chính trị
Tài liệu tham khảo:
[1]. Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/2/2012, của Hội nghị Trung ương 5 khóa XI "Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí".
[2], [4]. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 357, 362.
[3]. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 221.
[5]. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.251.
[6]. Chỉ thị số 27-CT/TW, ngày 10/1/2019, của Bộ Chính trị,"Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ người phát hiện, tố giác, người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí tiêu cực".
[7]. Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2005 và 2013, Quyết định số 2544/QĐ-TTg, ngày 30/12/2016, của Thủ tướng Chính phủ "Về ban hành Chương trình tổng thể của Chính phủ về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2016 - 2020".
[8]. Quyết định số 1845/QĐ-TTg, ngày 02/11/2021, của Thủ Tướng Chính phủ, "Về việc ban hành Chương trình tổng thể của Chính phủ về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2021 - 2025".