1. Quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân
Trong Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị khóa VI (15/7/1988) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI, Đảng ta đã khẳng định: Kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế địa bàn, quy mô, ngành nghề mà pháp luật không cấm.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (tháng 3/2002) tiếp tục xác định: Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, phát triển Kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hóa, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Tại Đại hội X (4/2006) của Đảng, kinh tế tư nhân chính thức được xác nhận là một thành phần kinh tế trên cơ sở hợp nhất hai thành phần kinh tế: cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân và được xác định rõ: "Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế"[2]. Đại hội đã thông qua một quyết định rất quan trọng là cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân.
Đại hội XI (2011), vai trò kinh tế tư nhân được nâng tầm cao mới với việc đưa vào Nghị quyết "Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Phát triển mạnh các loại hình kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy hoạch và quy định của pháp luật"[3].
Đến Đại hội XII (tháng 1.2016), Sự phát triển mới về nhận thức của Đảng đối với kinh tế tư nhân tại Đại hội XII là, chính thức xác nhận: "Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế", lần đầu tiên khái niệm tập đoàn kinh tế tư nhân xuất hiện [4].
Kế thừa các đại hội trước, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục làm rõ và sâu sắc hơn nhiều vấn đề mới về phát triển kinh tế tư nhân. Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định, phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân cả về số lượng, chất lượng, hiệu quả, bền vững, "thực sự trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế. Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân…"[5].
Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 4/5/2025 là một Nghị quyết rất mới thể hiện quyết tâm chính trị cao của Đảng bằng cách phát huy hơn nữa vai trò của kinh tế tư nhân để tạo động lực chiến lược mới phát triển đất nước. Đây là một thay đổi có tính đột phá về tư duy, từ chỗ coi kinh tế tư nhân là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế (Đại hội IX, năm 2001) sang "một động lực quan trọng" (theo Nghị quyết 10-NQ/TW năm 2017) và nay trở thành một "động lực quan trọng nhất" của kinh tế quốc gia, là đầu tàu chiến lược thúc đẩy kinh tế.
Như vậy, vị trí và vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nhiều thành phần từng bước được thừa nhận qua từng giai đoạn, từ chỗ chỉ là thành phần kinh tế cần "cải tạo" bằng những bước đi thích hợp đến chỗ có vị trí quan trọng lâu dài trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, được khuyến khích phát triển; từ chỗ là một trong những động lực của nền kinh tế trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế và nay trở thành một "động lực quan trọng nhất".
Xác định "kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất" của nền kinh tế chính là nhằm đến vai trò tích cực của thành phần kinh tế này. Đảng ta đã nhận thấy rõ, thành phần kinh tế tư nhân còn nhiều tiềm năng chưa được giải phóng, nhiều nguồn lực chưa được huy động và chưa hoạt động tương xứng với khả năng và nguồn lực trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Trên thế giới không một quốc gia nào đạt được thịnh vượng mà thiếu đi một khu vực tư nhân phát triển mạnh mẽ. Ở các nền kinh tế đang phát triển, khu vực tư nhân là "động cơ" chính của nền kinh tế, tạo ra 90% việc làm, đóng góp khoảng 70% GDP và tới 75% tổng đầu tư của họ. Chưa kể các quốc gia thuộc OECD, khu vực tư nhân chiếm tỷ trọng áp đảo trong GDP và việc làm, là nguồn gốc của hầu hết các sáng kiến đổi mới sáng tạo.
2. Thực trạng kinh tế tư nhân - Một số rào cản
Trong gần bốn thập kỷ qua, khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam đã có bước phát triển cả về lượng và chất, góp tích cực vào giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội cơ bản của đất nước. Tuy nhiên, sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với nhiều rào cản. Cụ thể:
Thứ nhất, các rào cản có liên quan đến tư duy lý luận và nhận thức đối với sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
Sau gần 40 năm đổi mới, đến nay, đường lối và quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân luôn nhất quán, liên tục được hoàn thiện, đổi mới, tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện nhằm đạt được sự thống nhất cao về tư tưởng để chỉ đạo thực hiện. Cụ thể là việc xác định rõ nội hàm xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường, vai trò của kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước…
Thứ hai, các rào cản liên quan đến khung khổ pháp luật cho sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
Việt Nam đã sửa đổi Hiến pháp, ban hành nhiều đạo luật từ Bộ Luật dân sự, đến các Luật như: Thương mại, Ngân hàng, Đầu tư, doanh nghiệp (DN)… Tuy nhiên đến nay, hệ thống thể chế và pháp luật của Việt Nam theo yêu cầu phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế vẫn còn chưa hoàn thiện và đầy đủ. Trong những năm qua, số lượng văn bản pháp luật tăng nhanh, trong khi chất lượng của nhiều văn bản chưa đảm bảo; việc lấy ý kiến công chúng tuy đã được cải thiện nhưng chưa thực sự thay đổi về chất… Còn nhiều quy định chưa rõ ràng, thiếu nhất quán, phức tạp và chồng chéo, dẫn tới tình trạng các cơ quan thừa hành và các DN lúng túng trong việc chấp hành luật.
Thứ ba, các rào cản liên quan đến môi trường đầu tư và kinh doanh.
- Rào cản về gia nhập thị trường quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ; môi trường kinh doanh chưa thực sự bảo đảm cạnh tranh công bằng, lành mạnh; việc gia nhập, hoạt động và rút khỏi thị trường còn nhiều rào cản.
- Rào cản đối với tiếp cận thông tin và nguồn lực (vốn, đất đai). DN tư nhân (DNTN) có quy mô nhỏ thường gặp khó khăn hơn trong tiếp cận thông tin so với các DN ngoài nhà nước với quy mô lớn. Các DNTN cũng luôn gặp phải những vấn đề khó khăn trong tiếp cận đất đai và mặt bằng cho sản xuất kinh doanh. môi trường kinh doanh chưa thật thuận lợi.
Thứ tư, các rào cản có liên quan đến việc thực thi các quy định đối với hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân. Mặc dù thời gian qua, một số bộ, ngành đã có những cải cách tích cực về các quy định liên quan như thành lập DN, tiếp cận điện năng, thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội... nhưng thực tế cho thấy, vẫn còn khoảng cách lớn giữa quy định và thực thi các luật này. Ví dụ: Mặc dù, Luật DN và Luật Đầu tư 2014 đã có nhiều cải cách nhưng vẫn còn khá nhiều rào cản dưới luật gắn với các quy định về điều kiện kinh doanh như các "giấy phép con".
Thứ năm, các rào cản liên quan đến chi phí không chính thức. Việc phải trả các khoản chi phí không chính thức là một gánh nặng lớn mà các DNTN. Giá trị của các khoản chi phí không chính thức so với doanh thu của của DNTN tương đối lớn.
Thứ sáu, các rào cản liên quan đến sự bất bình đẳng trong cơ chế chính sách đối với khu vực kinh tế tư nhân trong tương quan so sánh với khu vực kinh tế nhà nước và khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Các DN nhà nước (DNNN) vẫn được hưởng nhiều ưu ái từ Nhà nước.
Chính những hạn chế nêu trên đã khiến kinh tế tư nhân chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, "chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước". Để đạt được các mục tiêu phát triển quốc gia đến 2030 và 2045, việc giải quyết các rào cản này được xem là vấn đề cấp bách. Nghị quyết 68 ra đời nhằm đưa ra những giải pháp tổng thể, toàn diện và đột phá để khắc phục những điều này, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
3. Giải pháp để kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng nhất của kinh tế quốc gia.
Thứ nhất, đổi mới nội dung, phương thức, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp đối với kinh tế tư nhân.Bảo đảm giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với khu vực kinh tế tư nhân trên cơ sở phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở. Các cấp ủy đảng tăng cường chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất cao trong hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân về chủ trương nhất quán trong phát triển kinh tế tư nhân của Đảng và Nhà nước; lãnh đạo thực hiện hiệu quả, công khai, minh bạch các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế, năng lực kiến tạo phát triển và tổ chức thực hiện chính sách, luật pháp của Nhà nước, qua đó, chống thất thu thuế và xử lý các hành vi vi phạm luật doanh nghiệp, người dân. Xây dựng Nhà nước "kiến tạo" để các loại hình doanh nghiệp phát huy tốt nhất tiềm năng trong một môi trường bình đẳng, công khai và minh bạch.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp trong phát triển kinh tế tư nhân. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, làm tốt vai trò tổ chức đại diện, tích cực phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước để cung cấp thông tin, hỗ trợ liên kết, hợp tác kinh doanh, đào tạo kỹ thuật và tư vấn cho các hội viên.
Thứ hai, hoàn thiện môi trường thể chế, chính sách cho quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Nhận thức sâu sắc được điều kiện quan trọng, mấu chốt để kinh tế tư nhân phát triển là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, Đảng đề ra các định hướng cơ bản hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó nhấn mạnh về hoàn thiện thể chế sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất - kinh doanh, hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
Bảo đảm các cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân phù hợp với cơ chế thị trường và thúc đẩy tính tự chủ, cạnh tranh của kinh tế tư nhân; không biến các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân thành bao cấp, phục vụ "lợi ích nhóm" dưới mọi hình thức.
Thứ ba, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh giữa các thành phần kinh tế. Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng trước pháp luật
Nhà nước từ vai trò quản lý doanh nghiệp trở thành Nhà nước kiến tạo hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, hoàn thiện thể chế kinh tế theo kịp sự phát triển của thực tiễn, tạo hành lang pháp lý thông thoáng, nâng cao hiệu quả thực thi chính sách. Tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân, bảo đảm thực hiện quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản của các chủ thể kinh tế tư nhân.
Thứ tư, hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động.
Đẩy mạnh thực hiện chiến lược quốc gia về phát triển nguồn nhân lực. Đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, nhất là đào tạo nghề, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu số lượng và chất lượng nhân lực cho phát triển kinh tế tư nhân. Tăng cường hợp tác, liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo; quy hoạch và phát triển đào tạo theo nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp và thị trường.
Tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
Khuyến khích, động viên tinh thần khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo trong toàn xã hội, nhất là trong cộng đồng doanh nghiệp. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục kiến thức kinh doanh, khởi nghiệp.
Xây dựng mô hình quản trị doanh nghiệp hiện đại. Để doanh nghiệp phát triển bền vững, cần xây dựng mô hình quản trị hiện đại, phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế, tập trung nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
4. Kết luận
Kinh tế tư nhân ngày càng phát triển, có những đóng góp to lớn hơn trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, cơ cấu lại nền kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội. Bước đầu, nước ta đã hình thành được một số tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô lớn, hoạt động đa ngành, có khả năng cạnh tranh tốt hơn trên thị trường trong nước và quốc tế; đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh, từng bước nâng cao trách nhiệm đối với người lao động, cộng đồng, xã hội; đạo đức, văn hóa kinh doanh ngày càng được chú trọng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 8, tr. 267
[2] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr.83.
[3] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011.
[4] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tr.107-108.
[5] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxv CTQGST, Hà Nội, 2021, t.r240.
Th.S Mai Thị Vũ Hương - Khoa Chính trị học, Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam