Ảnh minh họa
1. Đặt vấn đề
Công nghệ số đã đưa xã hội đến với thế giới ảo, vạn vật trở nên thông minh, tinh xảo không thể lường trước được. Một thế giới có quá nhiều tiện ích và tạo nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho con người trong công việc và trong cuộc sống. Công nghệ số xóa bỏ hoàn toàn cách làm việc thủ công, thay vào đó là ứng dụng công nghệ trong thực hiện công việc tiết kiệm được thời gian, nâng cao hiệu suất cũng như hiệu quả hoạt động toàn diện trong các doanh nghiệp, cơ quan. Điều đó đòi hỏi con người phải có kiến thức trong công việc và các kỹ năng cần thiết khác để thích ứng với môi trường lao động - việc làm là một yêu cầu tất yếu.
2. Thực trạng công nghệ số tác động đến lao động - việc làm trong giai đoạn hiện nay
Công nghệ số đã và đang ảnh hưởng sâu rộng tới tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, đặc biệt là lĩnh vực lao động - việc làm đã chịu tác động rất lớn trên nhiều góc độ khác nhau. Nó có tác động lớn tới rất nhiều doanh nghiệp trong tất cả các nền công nghiệp. Sự xuất hiện của công nghệ hiện đại giúp tạo ra những phương thức hoàn toàn mới trong sản xuất và cung ứng dịch vụ, đồng thời tạo đột phá quan trọng trong chuỗi giá trị công nghiệp.
2.1. Thuận lợi
Công nghệ số đã, đang và sẽ gia tăng thu nhập, cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân trên toàn thế giới, và công nghệ đã tạo ra các dịch vụ, sản phẩm mới với chi phí tương đối phục vụ người tiêu dùng thỏa mãn nhu cầu cuộc sống cá nhân. Điểm quan trọng nhất là công nghệ số sẽ giúp chúng ta áp dụng công nghệ để tăng năng suất lao động, giảm chi phí nhân lực. Cuộc cách mạng này đã và sẽ làm thay đổi hoàn toàn thị trường lao động về cơ cấu lao động, cơ cấu nguồn lực, trình độ lao động, kỹ năng lao động; Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã mở ra nhiều cơ hội hợp tác và phát triển cho lao động và doanh nghiệp.
Trong tương lai, yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội là tri thức chứ không phải là nguồn vốn đầu tư trong sản xuất nữa. Sự ra đời của robot có khả năng di chuyển và tương tác, sẽ giúp các công việc năng suất thấp đạt năng suất cao. Sự thay đổi này không ai có thể ngăn cản được bởi vì đó là quy luật của xã hội. Sự phát triển, hy sinh, mất mát để thị trường lạo động - việc làm ngày một đáp ứng với nhu cầu xã hội là tất yếu và cần thiết.
Công nghệ mới này sẽ gây nhiều biến động hơn các cuộc cách mạng công nghệ trước đây. Đó là:
Tốc độ: trong thời gian qua cho thấy mọi thứ đã và đang diễn ra với một tốc độ nhanh chưa từng có, khoa học - công nghệ phát triển và thay đổi vượt bậc. Một số công việc sẽ loại bỏ và lần lượt được thay thế bởi công việc mới phù hợp với yêu cầu mới. Đặc biệt là lĩnh vực công nghệ thông tin, điện tử, tự động hóa, nông nghiệp công nghệ cao, chăm sóc sức khỏe sẽ có nhu cầu lao động rất lớn mở ra cơ hội việc làm cho lao động cả trong nước và quốc tế. Thời gian qua tại Việt Nam, livestream bán hàng là một trào lưu trên nền tảng Tiktok - Bán hàng gắn với công nghệ, làm việc vào thời gian rảnh. Có thể đây là công việc thứ hai hoặc công việc thay thế cho công việc trước, một chiếc smartphone có kết nối Wifi thì ai cũng có thể tham gia công việc này.
Chiều sâu: những thay đổi này sẽ làm thay đổi đáng kể bản chất của công việc trên tất cả các ngành, nghề. Trong tương lai, tự động hóa ban đầu sẽ ảnh hưởng đến công việc văn phòng, bán hàng, dịch vụ khách hàng, và các ngành hỗ trợ. Quá trình robot tự động hóa, báo cáo tự động và trợ lý ảo đang trở nên phổ biến, trả lời tự động... Trong ngành Tư pháp, máy tính có thể nhanh chóng “đọc” hàng triệu email và cắt giảm chi phí điều tra, trong sản xuất đã có robot làm việc thay thế con người, trong hôn nhân và gia đình đã có “Robot Búp bê”. Mặc dù công nghệ có những tác động tích cực đối với tăng trưởng kinh tế, nhưng cũng không ít tác động tiêu cực đối với thị trường lao động.
2.2. Khó khăn
Những lo ngại đầu tiên khi công nghệ số phát triển, đó là những hiệu ứng phá hủy như đột phá công nghệ nhiên liệu, thu nhập và việc làm của lao động, khi tự động hóa sẽ thay thế lao động chân tay bằng robot trong sản xuất, buộc người lao động phải nghỉ việc hoặc chuyển đổi sang công việc khác không phù hợp. Hiện nay chúng ta khó có thể hình dung công việc và thu nhập trong tương lai của con người sẽ như thế nào? Nhưng khi tự động hóa lên đến chỉ số cực cao và khả năng siêu kết nối của các thiết bị thông minh thì chắc chắn sẽ có tác động lớn đối với lực lượng lao động và khi đó hàng triệu lao động trên thế giới có thể rơi vào cảnh thất nghiệp trong đó có Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia có quy mô dân số lớn, nguồn lao động trẻ dồi dào nhưng chất lượng lao động và chi phí thấp. Tuy nhiên, trong tương lai Việt Nam không còn là một nước có ưu thế về nguồn lao động giá rẻ nữa và nguồn lao động này sẽ có nguy cơ mất việc, đất nước sẽ tụt hậu về kinh tế, nạn thất nghiệp và lạm phát xảy ra làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Khi đó, nguồn nhân lực sẽ trở nên phí phạm, dẫn đến những hệ lụy về tệ nạn xã hội, thậm chí dẫn đến biến động về chính trị như biểu tình, đình công, con người dễ bị xúi giục tuyên truyền lệch lạc gây bất ổn tới an ninh quốc gia.
Người lao động khi đối mặt với công nghệ số, vấn đề lo ngại lớn nhất đó là khả năng thích ứng và học tập. Nếu khả năng thích ứng và học tập tốt sẽ nhanh chóng nắm bắt được những kỹ năng mới. Từ đó người lao động sẽ có nhiều cơ hội chuyển đổi nghề nghiệp. Còn nếu người lao động không có khả năng thay đổi kịp theo nhu cầu của thị trường lao động thì chúng ta sẽ có rất nhiều khó khăn và khả năng kết nối, chia sẻ thông tin trên toàn thế giới thông qua các thiết bị công nghệ... sẽ làm thay đổi cách thức kết nối giữa cung và cầu trên thị trường lao động.
Công nghệ số không chỉ thay đổi lực lượng lao động - việc làm mà làm thay đổi cả về nhân cách con người như: bản sắc văn hóa; sự riêng tư; ý thức về sự sở hữu,
bảo vệ và tăng cường sức khỏe; cách thức sử dụng thời gian cho công việc, giải trí, phát triển sự nghiệp; trau dồi kỹ năng; hình thành và củng cố các mối quan hệ xã hội… Điều đó đặt ra câu hỏi liệu sự hội nhập tất yếu của công nghệ trong cuộc sống có thể làm giảm một số phẩm chất tốt đẹp của con người, chẳng hạn như lòng thương cảm và sự hợp tác hay không? Mối quan hệ của chúng ta với các trang “mạng xã hội” là một ví dụ điển hình. Sự kết nối thường xuyên liên tục với “Zalo” “Facebook”, Tiktok… có thể cô lập chúng ta khỏi thế giới thực tại của cuộc sống.
3. Những ý kiến nhằm phát huy tu duy khởi nghiệp của thanh niên trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0
Công nghệ số diễn ra với tốc độ khó kiểm soát và chắc chắn sẽ đặt Việt Nam trước nguy cơ tụt hậu so với thế giới và rơi vào thế bị động trong khi phải đối phó với những mặt trái của cuộc cách mạng này và tự động hóa sẽ thay thế lao động chân tay bằng robot trong sản xuất. Nhà nước Việt Nam, doanh nghiệp, người lao động và các chủ thể có liên quan cần phải làm gì để có thể ổn định thị trường lao - việc làm hiện tại cũng như trong tương lai?
3.1. Đối với Nhà nước
Để tránh tình trạng đất nước tụt hậu về kinh tế, nạn thất nghiệp, phí phạm nguồn nhân lực và lạm phát xảy ra thì Nhà nước Việt Nam cần phải có những giải pháp sau:
Thứ nhất, dự báo hoặc định hướng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cả về số lượng lẫn chất lượng. Trong đó, chú trọng đào tạo về trình độ chuyên môn, kiến thức quản trị về kinh doanh, kỹ năng, tính sáng tạo và năng động trong công việc, ứng dụng khoa học công nghệ cao đối với một số ngành, nghề đã và sẽ diễn ra thâm nhập vào thị trường lao động Việt Nam. Nếu Việt Nam không có những định hướng và bước đi chính xác, cụ thể thì nguy cơ bị tụt hậu về kinh tế là điều rất dễ xảy ra.
Thứ hai, cần hoàn thiện hệ thống thông tin về thị trường lao động, dự báo nhu cầu lao động của các ngành nghề phổ biến trong bối cảnh công nghệ số. Xây dựng kế hoạch cụ thể trong việc đào tạo nâng cao tay nghề một số ngành nghề mới cho lao động trẻ và lao động đang làm việc đáp ứng thời đại công nghệ.
Thứ ba, cần có đề án nghiên cứu tổng thể về nhân lực trong nước, từ đó xây dựng các chương trình đào tạo nghề đặc thù dành cho người Việt Nam, đẩy mạnh yếu tố giáo dục nghề nghiệp giúp cho người học nghề có được kỹ năng thích ứng nhanh sẵn sàng đáp ứng yêu cầu việc làm cả hiện nay và sau này; Đẩy mạnh đào tạo ngoại ngữ giúp người học có nền tảng tốt, có thể nắm bắt kỹ năng mới và thay đổi nghề nghiệp nhanh để có thể đào tạo và đào tạo lại nhanh hơn. Làm được điều này sẽ tránh được trường hợp thất nghiệp gặp khó khăn trong đào tạo lại; qua đó, đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống giáo dục ngành - nghề, tạo bước chuyển biến rõ nét về chất lượng đào tạo thích ứng với cách mạng công nghiệp 4.0.
Thứ tư, đây là cuộc cách mạng tác động đến thị trường trên phạm vi toàn thế giới, đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật lao động quốc tế để điều chỉnh những mối quan hệ mang tính chất tiêu cực của cuộc cách mạng này. Do đó, Việt Nam cần tham gia sâu và rộng hơn nữa vào hệ thống pháp luật lao động quốc tế, thông qua việc gia nhập, phê chuẩn thêm công ước quốc tế và khu vực về lao động. Bên cạnh đó, cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật lao động Việt Nam trên phương diện kỹ thuật cũng như trong khâu tổ chức thực hiện, đáp ứng sự thay đổi của bản chất quan hệ lao động trong bối cảnh số.
Thứ năm, có chính sách hỗ trợ đối với doanh nghiệp trong duy trì sản xuất, người lao động gặp rủi ro, giúp họ tiếp tục tham gia vào thị trường lao động, đảm bảo việc làm khi số hóa phát triển nhanh.
3.2. Đối với các doanh nghiệp
Thứ nhất, cần phải kịp thời nắm bắt thông tin về ứng dụng khoa học - công nghệ trong sản xuất để đổi mới thiết bị thông minh phù hợp với công nghệ mới đảm bảo lợi nhuận kinh tế và đáp ứng sản phẩm cho thị trường.
Thứ hai, trang bị nguồn lực chất lượng cao qua phương thức đào tạo hoặc bồi dưỡng nâng cao trình độ đối với người quản lý về năng lực quản trị để thiết kế phương án sử dụng lao động hiệu quả; cần phải thay đổi và chuẩn bị sẳn sàng cho tương lai. Đây là thời kỳ phân công lại lao động, nếu có sự chuẩn bị tốt thì thị trường lao động vẫn đáp ứng được nhu cầu cao.
Thứ ba, xây dựng lại đội ngũ lao động bằng cách đào tạo hoặc đào tạo lại lực lượng lao động đang làm việc về kỹ năng ứng dụng khoa học - công nghệ cao vào trong công việc, trình độ chuyên môn đáp ứng thời đại để tránh tình trạng lao động thất nghiệp khi thay đổi quy trình sản xuất, phương thức sản xuất, người lao động thích ứng kịp thời với công nghệ. Nên có sự chuẩn bị trong việc đào tạo đi trước đón đầu thời đại như hiện nay. Trong đó, lựa chọn đào tạo những ngành nghề, những lĩnh vực mới phù hợp với xu hướng nhu cầu phát triển của xã hội, tạo việc làm bền vững cho người lao động để điều chỉnh ngành nghề khi cần thiết.
3.3. Đối với người lao động
Thứ nhất, phải có ý thức tự thay đổi mình, tự học tập nâng cao trình độ, ngành nghề phù hợp với nhu cầu thực tế công việc hiện nay để tránh bị đào thải, cân nhắc trong việc lựa chọn để chuyển đổi nghề nghiệp. Nếu người lao động có khả năng thích ứng và khả năng học tập tốt sẽ nhanh chóng nắm bắt được những kỹ năng mới đáp ứng nhu cầu công việc mới. Từ đó người lao động sẽ có nhiều khả năng, cơ hội chuyển đổi nghề nghiệp mới rất nhanh, tạo công việc ổn định cho hiện tại cũng như trong tương lai. Còn nếu người lao động không có khả năng thay đổi kịp theo nhu cầu của thị trường lao động thì chúng ta sẽ có rất nhiều khó khăn để làm tiếp công việc đang làm hay để tìm một công việc khác thay thế.
Thứ hai, mỗi người lao động cần có cách tiếp cận nhanh, có suy nghĩ tích cực đối với thời đại công nghệ số bởi công việc lao động chân tay (hay truyền thống) có thể mất đi nhưng đó cũng là cơ hội để chúng ta đến với công việc mới có thể có thu nhập tốt hơn, phù hợp hơn với chính bản thân chúng ta. Thời đại này
luôn tạo cho con người nhiều cơ hội, tìm kiếm công việc dẽ dàng hơn thông qua internet và có thể từ một người công nhân lao động có thể trở thành một người chủ chính công việc của mình khi nắm bắt được thời cơ. Bên cạnh đó, người lao động cần nâng cao ý thức, tuân thủ pháp luật, tác phong lao động công nghiệp và kỷ luật lao động, có sự thích nghi, hòa nhập và luôn chủ động sáng tạo hơn trong công việc của mình.
Thứ ba, ngày nay khi công nghệ phát triển, đòi hỏi công việc của con người phải có trình độ cao, tốc độ, cường độ công việc cũng phải cao. Do đó, chúng ta phải nắm bắt cơ hội, tiếp cận dần mọi thứ, thế giới thông minh là do con người tạo nên. Không có gì thay thế được con người mà chỉ có con người tạo nên cuộc sống chất lượng hơn.
Kết luận
Trong xu thế hội nhập và phát triển, đòi hỏi mỗi người phải luôn luôn suy nghĩ, tìm tòi, phát hiện ra cái mới và có những sáng kiến hữu ích để áp dụng vào công việc và cuộc sống; phải có tính độc lập, mạnh dạn tiếp thu, áp dụng công nghệ; không ngừng sáng kiến, cải tiến để nâng cao chất lượng hiệu quả công việc. Do vậy, mỗi người cần phải lao động cần cù và sáng tạo và tiếp tục vượt qua mọi thành kiến, thách thức vươn lên đóng góp tích cực vào các hoạt động xã hội. Không thể phủ nhận công nghệ số mang đến cho nhân loại rất nhiều cơ hội để thay đổi nền kinh tế nhưng bên cạnh đó cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro khôn lường. Chưa bao giờ trong lịch sử con người lại đứng trước cùng một lúc nhiều cơ hội và rủi ro đến vậy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Nguyễn Hoài Sơn (2013), “Khu vực phi chính thức ở các nước đang phát triển”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, tr. 87-95.
2. Bùi Đức Hiển (5-6/2018). Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đến phát triển bền vững ở Việt Nam và gợi mở xây dựng pháp luật. Tập chí nhịp cầu tri thức. Số 3.
3. Fujitsu (2015) “introduction of Fujitsu’s Food and Agriculture Cloud Akisai”. Lấy từ https://www.fujitsu.com/ global/Images/presentation-20150226-01.pdf.
4. Hermann, Pentek, Otto, (2015). Desigh Principles for Industrie 4.0 Scenarios.
5. Klaus Schwab (2016). The Fouth Industrial Revolution.
6. Abe, Nicola. 2022. “Brasilien - Arbeitsbedingungen: Wie die Stadt Rio de Janeiro Uber austrickste”,https://www. spiegel.de/ausland/brasilien‐arbeitsbedingungen‐wie‐ die‐stadt‐rio‐de‐janeiro‐uber‐austrickste‐a‐d622529c‐ e68d‐49ae‐a5ee‐d73247130808.
7. Bùi Thị Hồng Hà (2023), “Kỹ năng số của lực lượng lao động: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11, tr.23-32.
ThS. CAO THỊ HOA
Trường Đại học An Giang, Đại học Quốc gia TPHCM