Công tác thực hiện Luật Bình đẳng giới tại tỉnh Đồng Tháp: thực trạng và giải pháp

Thứ hai, 06/05/2024 - 08:00

NCKH - Tóm tắt: Bài báo này đánh giá thực trạng thực hiện Luật Bình đẳng giới (BĐG) tại tỉnh Đồng Tháp. Bài viết phân tích những thành tựu đạt được trong thời gian qua, đặc biệt là năm 2023, với những thách thức và tồn tại từ đó đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy hiệu quả thực hiện Luật BĐG trong giai đoạn tiếp theo.

Từ khóa: bình đẳng giới, luật bình đẳng giới, công ước CEDAW, phụ nữ, vì sự tiến bộ của phụ nữ (VSTBPN), Đồng Tháp, Việt Nam, thực trạng, giải pháp.

I. Đôi nét về sự ra đời và mục tiêu của Luật Bình Đẳng giới

Công ước về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn ngày 18/12/1979. Đây là kết quả của quá trình đấu tranh của phong trào phụ nữ quốc tế, của Ủy ban về địa vị phụ nữ Liên hiệp quốc (CSW) nhằm nâng cao địa vị và quyền lợi của phụ nữ. CEDAW là công ước quan trọng và toàn diện nhất về quyền bình đẳng của phụ nữ, là công cụ quốc tế duy nhất đầy đủ sức mạnh để xử lí và giải quyết một cách toàn diện, hài hòa quyền lợi của phụ nữ trong mọi mặt của đời sống xã hội, trong từng quốc gia, khu vực và quốc tế. Các quốc gia khi tham gia công ước đều phải thực hiện nghĩa vụ trong việc bảo đảm rằng pháp luật hiện hành tại quốc gia đó thể hiện sự bình đẳng trong đối xử với phụ nữ và có những cơ chế, chế tài bảo đảm phụ nữ được hưởng sự bình đẳng đó. Nhận thức được tầm quan trọng của bình đẳng giới đối với sự phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm thúc đẩy bình đẳng giới. Nước ta là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới tham gia ký công ước CEDAW vào 29/7/1980 và phê chuẩn vào 27/11/1981.

Việt Nam xem bình đẳng giới là một nguyên tắc cơ bản trong xã hội, là điều kiện tiên quyết để phát triển bền vững. Đồng thời, để thực hiện cam kết mạnh mẽ của nước ta trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của phụ nữ và cũng là tạo nền móng pháp lý, công cụ để thực hiện bình đẳng giới đòi hỏi chúng ta phải xây dựng một đạo luật về vấn đề này. Trước khi Luật Bình đẳng giới ra đời, phụ nữ Việt Nam phải đối mặt với nhiều bất bình đẳng trong mọi lĩnh vực của đời sống. Họ bị hạn chế về cơ hội học tập, việc làm, tham gia chính trị và chịu nhiều định kiến, phân biệt đối xử. Luật Bình đẳng giới được Quốc Hội ban hành lần đầu năm 2006 và sửa đổi năm 2016, là một cột mốc lịch sử quan trọng, đánh dấu bước ngoặt trong quá trình đấu tranh cho sự công bằng, bình đẳng vì sự tiến bộ của phụ nữ ở Việt Nam. Nó không chỉ thể hiện cam kết của Việt Nam trong việc thực hiện các nghĩa vụ quốc tế, mà còn là minh chứng cho nỗ lực không ngừng nghỉ của toàn xã hội trong việc xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ.

Luật ra đời là kết quả của quá trình nghiên cứu, tham khảo ý kiến rộng rãi của các chuyên gia, nhà khoa học, tổ chức xã hội và nhân dân. Luật Bình đẳng giới đặt ra mục tiêu hướng đến một xã hội bình đẳng giới thực chất, nơi phụ nữ và nam giới có cơ hội và điều kiện như nhau để phát huy năng lực, đóng góp cho gia đình và xã hội. Với nội dung cốt lõi bao gồm các quy định về: Nguyên tắc bình đẳng giới; Quyền và nghĩa vụ bình đẳng giới; Biện pháp bảo đảm bình đẳng giới; Giải quyết tranh chấp về bình đẳng giới.

Luật Bình đẳng giới đã và đang đóng vai trò to lớn trong việc thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam. Luật đã góp phần: Nâng cao nhận thức của mọi người về tầm quan trọng của bình đẳng giới; Tạo môi trường thuận lợi cho phụ nữ phát triển; Nâng cao vị thế của phụ nữ trong gia đình và xã hội; Thúc đẩy sự phát triển của đất nước; là văn bản pháp luật ý nghĩa thiết thực trong nhằm đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giới trong mọi mặt của đời sống xã hội, vì sự tiến bộ của Phụ nữ; đồng thời cũng thể hiện cam kết của Việt Nam đối với quốc tế trong việc thực hiện Công ước CEDAW.

II. Thực trạng công tác thực hiện Luật Bình đẳng giới của tỉnh Đồng Tháp

Đồng Tháp là một trong những địa phương đi đầu trong cả nước đối với công tác thực hiện chiến lược quốc gia về bình đẳng giới, trong đó có công tác thực hiện Luật BĐG. Công tác này được cấp ủy, chính quyền và các sở ban ngành, các cấp quan tâm thực hiện. Tỉnh đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quyết định, thành lập Ban Chỉ đạo BĐG các cấp, tổ chức tập huấn, tuyên truyền nâng cao nhận thức về Luật BĐG cho cán bộ, đảng viên và người dân, nhất là phụ nữ. Nhờ đó, nhận thức về bình đẳng giới trong xã hội có những chuyển biến tích cực, vai trò, vị trí của phụ nữ ngày càng được khẳng định trong các hoạt động đời sống xã hội. Phụ nữ Đồng Tháp tích cực tham gia các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đội ngũ cán bộ nữ từ tỉnh đến cơ sở ngày càng đóng góp tích cực vào lãnh đạo, điều hành, quản lí xã hội, có nhiều cơ hội hơn trong thực hiện quyền bình đẳng thông qua việc góp ý, xây dựng và thực thi các chủ trương, chính sách có liên quan đến công tác bình đẳng giới. “Trong xây dựng đời sống văn hóa mới, xây dựng kinh tế cũng như hạnh phúc gia đình, phụ nữ đóng góp và giữ vai trò quan trọng trong việc giải quyết hài hòa các mối quan hệ xã hội và gia đình, tiếp tục phát huy vai trò là lượng lượng nòng cốt trong xây dựng, bảo vệ tổ ấm gia đình. Trong từng cương vị, lĩnh vực và môi trường sống khác nhau phụ nữ luôn được tạo mọi điều kiện vươn lên, nâng cao trình độ, năng lực về mọi mặt, để xây dựng gia đình hạnh phúc, phát triển toàn diện bản thân, đồng thời thực hiện tốt mọi nghĩa vụ, trách nhiệm và bổn phận của người công dân. [1]

Song song với những kết quả tích cực đã đạt được, vẫn còn có những khó khăn, thách thức trong quá trình thực hiện. Khoảng cách lớn giữa giới vẫn tồn tại thể hiện trong một số lĩnh vực, sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị không ngừng tăng lên nhưng vẫn còn hạn chế, cơ hội để phụ nữ tiếp cận với các công việc có thu nhập cao vẫn thấp hơn so với nam giới; công tác tuyên truyền về bình đẳng giới ở một số ngành, địa phương vẫn còn mang tính hình thức, thiếu thường xuyên, đa phần đối tượng được phổ biến là nữ, do đó nhận thức của một bộ phận cán bộ và người dân khác giới vẫn còn hạn chế, định kiến giới còn nhiều, hiện tượng bạo lực trên cơ sở giới vẫn còn xảy ra, sự phối hợp giữa các ngành, các cấp về thực hiện nội dung bình đẳng giới đôi lúc chưa được nhịp nhàng.

1. Kết quả thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới

“Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền và các sở, ban, ngành, đoàn thể các cấp, công tác BĐG từng bước có sự chuyển biến tích cực, Ban VSTBPN các cấp đã được củng cố, kiện toàn đi vào hoạt động có sự tập trung hiệu quả hơn góp phần thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu của Chương trình quốc gia về BĐG trên địa bàn tỉnh. Cán bộ làm công tác BĐG các đơn vị đều được tập huấn trang bị kiến thức và nâng cao công tác quản lý. Công tác tuyên truyền về Luật BĐG, Luật phòng chống bạo lực gia đình, kiến thức hôn nhân và gia đình,… được triển khai tới nhân dân, qua đó nhận thức về giới và BĐG dần được nâng cao trong nhân dân.” [2] Điều kiện kinh tế - xã hội và đời sống người dân ngày càng được cải thiện, khoảng cách về giới được thu hẹp, tình hình bạo lực gia đình được kiềm chế và công tác BĐG, VSTBPN được nhân rộng trên nhiều lĩnh vực xã hội.

1.1. Trong lĩnh vực chính trị: mục tiêu đến năm 2025 phấn đấu đạt 60% các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ. Kết quả đạt được: nữ lãnh đạo chủ chốt trong Cơ quan UBND hoặc HĐND cấp tỉnh: 01 người; Tỷ lệ chính quyền địa phương (UBND hoặc HĐND) cấp huyện có lãnh đạo chủ chốt là nữ: đạt 50%; Tỷ lệ chính quyền địa phương cấp xã có lãnh đạo chủ chốt là nữ: đạt 44,06%.

1.2. Trong lĩnh vực kinh tế, lao động: Tăng tỷ lệ lao động nữ làm công hưởng lương lên đạt 50% vào năm 2025: đạt 48%; Giảm tỷ trọng lao động nữ làm việc trong khu vực nông nghiệp trong tổng số lao động nữ có việc làm xuống dưới 30% vào năm 2025: đạt 35% (vượt chỉ tiêu) ; Tỷ lệ nữ giám đốc/chủ doanh nghiệp, hợp tác xã đạt ít nhất 27% vào năm 2025 (Nữ là chủ sở hữu, là người đại diện theo pháp luật của DN, HTX, Giám đốc HTX): đạt 27,58%.

1.3. Trong đời sống gia đình và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới: Giảm số giờ trung bình làm công việc nội trợ và chăm sóc trong gia đình không được trả công của phụ nữ còn 1,7 lần vào năm 2025 so với nam giới: Không có số liệu  thống kê, báo cáo ; Số nạn nhân của bạo lực gia đình được phát hiện được hỗ trợ một trong các dịch vụ cơ bản: 50 người; Tỷ lệ nạn nhân của bạo lực gia đình được phát hiện được hỗ trợ một trong các dịch vụ cơ bản: đạt 100%; Tổng số nạn nhân của bạo lực trên cơ sở giới được phát hiện: 0 người; Đến năm 2025 có 70% cơ sở trợ giúp xã hội công lập triển khai các hoạt động trợ giúp, phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới: đã có 02 cơ sở công lập đạt 100%.

1.4. Trong lĩnh vực y tế: Tỷ số giới tính khi sinh ở mức 111 bé trai/100 bé gái sinh ra sống vào năm 2025: đạt 105,18%; Tỷ lệ tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản giảm còn 42/100.000 trẻ sinh sống vào năm 2025: giảm còn 9,93; Tỷ suất sinh ở vị thành niên giảm từ 23 ca sinh/1.000 phụ nữ xuống 18/1.000 vào năm 2025: giảm còn 3,8; Phấn đấu đến năm 2025 có ít nhất một cơ sở y tế tuyến tỉnh cung cấp thí điểm dịch vụ chăm sóc sức khỏe dành cho người đồng tính, song tính và chuyển giới: 01 cơ sở.

1.5. Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo: Nội dung về giới, bình đẳng giới được đưa vào chương trình giảng dạy trong hệ thống giáo dục quốc dân và được giảng dạy chính thức ở các trường sư phạm từ năm 2025 trở đi: Nội dung về giới, bình đẳng giới  được tích hợp vào  một số môn học của chương trình giảng dạy; Tỷ lệ trẻ em trai và trẻ em gái dân tộc thiểu số hoàn thành giáo dục tiểu học đạt trên 90% vào năm 2025; tỷ lệ hoàn thành cấp trung học cơ sở đạt khoảng 85% vào năm 2025: Không có học  sinh là dân tộc thiểu số.

1.6. Trong lĩnh vực thông tin, truyền thông: Phấn đấu đạt 60% vào năm 2025 dân số được tiếp cận kiến thức cơ bản về bình đẳng giới: đạt 50%; Từ năm 2025 trở đi 100% tổ chức Đảng, chính quyền, cơ quan hành chính, ban, ngành, đoàn thể các cấp được phổ biến, cập nhật thông tin về bình đẳng giới: đạt 100%; Từ năm 2025 trở đi 100% xã, phường, thị trấn mỗi quý có ít nhất 04 tin, bài về bình đẳng giới trên hệ thống thông tin cơ sở: đạt 100%; Duy trì đạt 100% đài phát thanh và đài truyền hình ở Tỉnh, huyện có chuyên mục, chuyên đề nâng cao nhận thức về bình đẳng giới hàng tháng: đạt 100%.

2. Nguyên nhân của những kết quả đã đạt được trong thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới

- Tỉnh chú trọng xây dựng, ban hành văn bản pháp luật về BĐG. Các sở, ngành, đoàn thể Tỉnh căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao tại Kế hoạch số 227/KH-UBND ngày 26/7/2021 của Ủy ban nhân dân Tỉnh về thực hiện Chiến lược quốc gia về BĐG các Sở, ban, ngành, đoàn thể Tỉnh, các địa phương đã ban hành Kế hoạch, Văn bản triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia về BĐG, Chương trình phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới và hoạt động VSTBPN trong từng giai đoạn và từng năm cụ thể.

- “Công tác thực hiện Luật BĐG được triển khai thực hiện và lồng ghép trong hoạt động Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, Quy ước khóm, ấp ở địa phương, sinh hoạt Câu lạc bộ “Gia đình phát triển bền vững”... Đồng thời, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch triển khai các chủ trương, chính sách, pháp luật, chương trình liên quan tới công tác BĐG phù hợp với chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể thao, du lịch và di sản văn hóa. Trên cơ sở đó, cấp huyện, cấp xã ban hành nhiều Văn bản triển khai thực hiện BĐG tại địa phương.” [3]

- Thực hiện hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về BĐG đa dạng và phong phú. Đa dạng hóa các hoạt động thông tin tuyên truyền như xây dựng Chuyên đề trên Báo, Đài; xây dựng pa nô, áp phích, tờ rơi, các hoạt động truyền thông trực tiếp tại đơn vị. Chú trọng việc tuyên truyền nâng cao nhận thức về BĐG, thay đổi hành vi nhằm ngăn chặn, giảm thiểu tình trạng bạo lực trên cơ sở giới.

- Sự nỗ lực của các địa phương. Thực hiện nhiều hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BĐG, như tổ chức các cuộc truyền thông trực tiếp, trên phương tiện thông tin đại chúng, viết tin, bài tuyên truyền trên website, Youtube, mạng xã hội Zalo, Facebook,...

- Công tác quản lý nhà nước về BĐG:Các ngành, các cấp xây dựng Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ bám sát vào quy hoạch, đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn chức danh, vị trí và nhiệm vụ công tác; trình độ cán bộ, công chức nữ được nâng lên và bố trí cán bộ nữ sau đào tạo có hiệu quả, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Công tác quy hoạch cán bộ nữ được quan tâm thực hiện, phấn đấu đến cuối giai đoạn tỷ lệ nữ lãnh đạo đạt Kế hoạch đề ra.

3. Thách thức và tồn tại

- Hoạt động tuyên truyền về BĐG tại một vài địa phương trong tỉnh chưa thường xuyên, chủ yếu lồng ghép với các hoạt động chuyên môn của các ngành và các hoạt động văn hóa – xã hội khác.

- Công tác phối hợp của các sở ban ngành, các cấp, địa phương chưa được thường xuyên, chặt chẽ, từng ngành thành viên chưa phát huy đúng chức năng, nhiệm vụ trong lồng ghép phối hợp triển khai công tác BĐG thuộc ngành, lĩnh vực quản lý.

- Việc lồng ghép quan điểm giới, BĐG trong các hoạt động chuyên môn của đơn vị còn mang tính chất phong trào, hình thức, thời gian đầu tư cho hoạt động này còn hạn chế nên chưa đạt hiệu quả cao.

- Trong lĩnh vực chính trị: Việc lồng ghép vấn đề BĐG trong xây dựng chính sách, pháp luật, các hoạt động thực tế về bình đẳng giới đôi lúc chưa đầy đủ, kịp thời. Chính sách hỗ trợ riêng cho nữ cán bộ, công chức, viên chức không còn được quy định tại các Nghị quyết về chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng. Một số ít cán bộ, công chức, viên chức nữ còn chưa dành nhiều thời gian để tự học, nâng cao trình độ phục vụ công tác chuyên môn.

- Trong lĩnh vực kinh tế, lao động: Việc triển khai các văn bản, chính sách BĐG trong doanh nhiệp, Hợp tác xã chưa thường xuyên. Việc thống kê số liệu nữ tham gia các hoạt động chưa được đầy đủ, nhất là đối với các doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến việc đánh giá kết quả thực hiện.

- Trong đời sống gia đình và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới: Nhận thức về BĐG ở một số nơi còn hạn chế nhất là ở vùng nông thôn, vùng biên giới; tình trạng bạo lực gia đình, bạo lực trên cơ sở giới, bạo hành trẻ em vẫn còn xảy ra... Công tác thu thập chỉ số về bạo lực gia đình tương đối ổn định theo biểu mẫu hướng dẫn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Tuy nhiên, lực lượng cán bộ thu thập chỉ số ở cơ sở thường xuyên thay đổi, chưa được cập nhật kiến thức, kỹ năng tổng hợp dẫn đến mức độ tin cậy chưa cao. Các hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về BĐG có lúc, có nơi chưa thật sự phong phú, đa dạng, chưa thu hút nhiều sự quan tâm của cộng đồng xã hội.

- Trong lĩnh vực y tế: Đội ngũ cán bộ kiêm nhiệm làm công tác BĐG và VSTBPN tại các đơn vị hằng năm có sự thay đổi luân chuyển công tác và vị trí việc làm, phần lớn mới được phân công phụ trách công tác BĐG nên còn hạn chế về kiến thức, kỹ năng và thiếu kinh nghiệm trong tổ chức triển khai nhiệm vụ.

- Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo: Nội dung về giới, BĐG được triển khai và các giải pháp thực hiện được thuận lợi, tổ chức hoạt động nhân các ngày 20/10; 8/3. Tuy nhiên, các hoạt động giáo dục về giới chưa được tổ chức nhiều hoạt động phong trào riêng, chủ yếu là thực hiện lồng ghép, tích hợp.

- Trong lĩnh vực thông tin, truyền thông: Các hoạt động cung cấp kiến thức cơ bản về BĐG đến người dân chủ yếu thông qua các kênh truyền thông của cơ quan truyền thông Đài, Báo. Không có nhiều kinh phí để thực hiện thường xuyên và đa dạng các hình thức khác.

4. Giải pháp để nâng cao hiệu quả thực Luật Bình đẳng giới trong thời gian tới

Công tác thực hiện Luật BĐG tại tỉnh Đồng Tháp đã đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức cần được giải quyết. Để thúc đẩy hiệu quả thực hiện Luật BĐG trong giai đoạn tiếp theo, cần có sự chung tay góp sức của toàn xã hội thông qua các giải pháp thiết thực sau:

4.1. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục

Nâng cao nhận thức của mọi người về tầm quan trọng của bình đẳng giới thông qua các kênh truyền thông đại chúng, giáo dục, và các hoạt động xã hội. Tập trung tuyên truyền về các nội dung chính của Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, và các văn bản pháp luật liên quan. Sử dụng đa dạng các hình thức tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng, địa bàn.

4.2. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật

Rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật liên quan đến bình đẳng giới cho phù hợp với thực tiễn; Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu, định mức về bình đẳng giới để đánh giá hiệu quả thực hiện luật.

4.3. Nâng cao năng lực cho cán bộ, công chức nói chung và đội ngũ làm công tác bình đẳng giới nói riêng

Tổ chức tập huấn, đào tạo về bình đẳng giới cho cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý; Nâng cao năng lực thực thi pháp luật về bình đẳng giới cho các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội.

4.4. Thúc đẩy thực hiện bình đẳng giới trong các lĩnh vực

- Giáo dục: Đảm bảo bình đẳng cơ hội tiếp cận giáo dục cho trẻ em gái và trai; Nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ em gái, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa; Khuyến khích phụ nữ tham gia vào các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM).

- Y tế: Cung cấp dịch vụ y tế bình đẳng cho phụ nữ và nam giới; Nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục cho phụ nữ và nam giới; Phòng ngừa và giảm thiểu các bệnh lây truyền qua đường tình dục, bao gồm HIV/AIDS.

- Lao động, việc làm: Xóa bỏ phân biệt đối xử về giới trong tuyển dụng, thăng tiến, và trả lương; Tạo cơ hội việc làm bình đẳng cho phụ nữ và nam giới; Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp và phát triển kinh tế.

- Tham gia chính trị: Khuyến khích phụ nữ tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội; Nâng cao tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các cơ quan dân cử, lãnh đạo, quản lý.

- Gia đình: Nâng cao nhận thức về bình đẳng giới trong gia đình, xây dựng gia đình bình đẳng, hạnh phúc; Phân chia công việc nhà bình đẳng giữa vợ và chồng; Bảo vệ phụ nữ và trẻ em khỏi bạo lực gia đình.

4.5. Xóa bỏ các định kiến và phân biệt đối xử về giới

Tăng cường tuyên truyền để xóa bỏ các định kiến, tập quán lạc hậu về giới; Khuyến khích phụ nữ tự tin khẳng định bản thân, tham gia vào các hoạt động xã hội; Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm luật bình đẳng giới.

4.6. Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội

Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và cộng đồng trong thực hiện công tác bình đẳng giới; Khuyến khích các tổ chức xã hội tham gia vào các hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới.

4.7. Tăng cường nguồn lực cho thực hiện luật bình đẳng giới

Bố trí ngân sách phù hợp cho các hoạt động thực hiện luật bình đẳng giới; Khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia đóng góp nguồn lực cho công tác bình đẳng giới.

4.8. Nâng cao hiệu quả giám sát, đánh giá

Tăng cường công tác giám sát thực hiện luật bình đẳng giới của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và nhân dân; Định kỳ đánh giá hiệu quả thực hiện luật bình đẳng giới và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện.

5. Kết luận

Công tác thực hiện Luật Bình đẳng giới tại tỉnh Đồng Tháp trong những năm qua đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần nâng cao vị thế, vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế cần được khắc phục trong thời gian tới. Thực hiện hiệu quả các giải pháp nêu trên một cách căn cơ và đồng bộ sẽ góp phần thúc đẩy bình đẳng giới thực chất trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội tại tỉnh Đồng Tháp.

Trường Đại học Đồng Tháp



TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về công tác phụ nữ trong thời kỳ mới.

2. Luật Bình đẳng giới, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự Thật, 2020.

3. Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 03-03-2021 của Chính phủ về việc Ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030.

4. Kế hoạch 1136/KH-ĐCT ngày 25/10/2021 của Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam về thực hiện chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030

5. Kế hoạch số 227/KH-UBND ngày 26/7/2021 của Ủy ban nhân dân Tỉnh về việc thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và Chương trình phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 2021-2025

6. Kế hoạch số 289/KH-BTV ngày 22/11/2021 về thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và Chương trình phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 2021-2030

7. Văn bản số 478/VPUBND-THVX ngày 24/3/2023 của Ủy ban nhân dân Tỉnh về việc hướng dẫn triển khai công tác bình đẳng giới (BĐG) năm 2023.

8. Kế hoạch số 180/KH-BVSTBPN ngày 18/5/2023 của Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ về thực hiện các hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới năm 2023.

9. Báo cáo số 354/BC-BTV ngày 15/12/2023 của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Đồng Tháp về việc Thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và Chương trình phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới tỉnh Đồng Tháp năm 2023.

10. Báo cáo số 14/BC-SLĐTBXH ngày 4/1/2024 của Sở Lao động - Thương binh và xã hội về kết quả thực hiện các mục tiêu Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và công tác Bình đẳng giới năm 2023.


[1] Báo cáo số 354/BC-BTV ngày 15/12/2023 của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Đồng Tháp về việc Thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và Chương trình phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới tỉnh Đồng Tháp năm 2023

[2] Báo cáo số 14/BC-SLĐTBXH ngày 4/1/2024 của Sở Lao động - Thương binh và xã hội về kết quả thực hiện các mục tiêu Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và công tác Bình đẳng giới năm 2023.

[3] Kế hoạch số 227/KH-UBND ngày 26/7/2021 của Ủy ban nhân dân Tỉnh về việc thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và Chương trình phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 2021-2025

Ths. Phan Anh - Ths. Nguyễn Hải Hà