Đại đoàn kết dân tộc - Động lực nội sinh cho khát vọng Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Thứ bảy, 06/09/2025 - 06:36

Tóm tắt: Bước vào kỷ nguyên mới, với những cơ hội vàng và thách thức đa chiều, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc cần tiếp tục được phát huy, củng cố và tăng cường bằng những phương thức đổi mới, phù hợp với bối cảnh số hóa và hội nhập sâu rộng, nhằm hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc vào năm 2045.

Dựa trên cơ sở lý luận sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam, bài viết phân tích toàn diện những thành tựu nổi bật, chỉ ra các hạn chế cần khắc phục trong việc phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và đề xuất một số giải pháp cơ bản để tiếp tục củng cố, duy trì khối đại đoàn kết, tạo nền tảng vững chắc cho sự vươn mình mạnh mẽ của dân tộc trong kỷ nguyên mới.

1. Đặt vấn đề

Qua gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đầy ý nghĩa lịch sử, dưới sự lãnh đạo tài tình và sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã đạt được những thành tựu vĩ đại, mang tầm vóc lịch sử. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (1). Những thành tựu rực rỡ ấy không chỉ củng cố vững chắc niềm tin sắt son của nhân dân đối với Đảng mà còn là bệ phóng vững chắc để đất nước tự tin vững bước tiến vào kỷ nguyên phát triển mới. Đây là giai đoạn mang tính bản lề, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải tiếp tục phát huy cao nhất sức mạnh của tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, gia tăng sự đồng lòng, đồng thuận, biến sức mạnh tổng hợp thành động lực hiện thực để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong kỷ nguyên vươn mình phát triển, hướng tới mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúcsánh vai cùng các cường quốc năm châu.

2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Sức mạnh tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc trong kỷ nguyên mới

Tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ là một truyền thống cực kỳ quý báu mà còn là bản sắc văn hóa đặc trưng của dân tộc Việt Nam, được hình thành, bồi đắp và hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước oai hùng. Theo Nghị quyết số 43-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII, đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, đường lối chiến lược quan trọng, xuyên suốt của Đảng; là nguồn sức mạnh to lớn, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (2).

Tinh thần này được hình thành từ ý thức sâu sắc về tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc, thúc đẩy mỗi người Việt Nam ý thức được trách nhiệm thiêng liêng của mình trong việc bảo vệ độc lập, chủ quyền và xây dựng Tổ quốc ngày càng phồn vinh. Đặc biệt, các giá trị văn hóa truyền thống nhân văn như “tương thân tương ái”, “lá lành đùm lá rách”, “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao” đã góp phần quan trọng củng cố tinh thần này, biến nó thành dòng chảy xuyên suốt lịch sử dân tộc. Trong kỷ nguyên mới, với sự bùng nổ của thông tin và giao lưu văn hóa, quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước về đại đoàn kết không chỉ là kim chỉ nam mà còn đóng vai trò then chốt trong việc duy trì và không ngừng khơi dậy sức mạnh tiềm tàng này trong bối cảnh đa dạng hóa các giá trị xã hội.

Sức mạnh của tinh thần đại đoàn kết là vô cùng to lớn và phi thường. Nó đã giúp dân tộc ta vượt qua mọi thử thách khắc nghiệt nhất, từ các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm anh dũng để giành độc lập, thống nhất đất nước, đến công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội đầy cam go nhưng cũng đạt được những thành tựu phi thường. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, với lòng yêu nước và tinh thần đại đoàn kết, dân tộc ta đã tạo nên một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi” (3). Trong giai đoạn hiện nay, nền tảng vững chắc của tinh thần này là liên minh vững chắc giữa các giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức, là quan hệ gắn bó máu thịt, không thể tách rời giữa Đảng với nhân dân, là niềm tin son sắt của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, là sự đoàn kết bền chặt giữa các dân tộc anh em, các tôn giáo, và đặc biệt là sự kết nối mạnh mẽ giữa cộng đồng người Việt Nam ở trong và ngoài nước.

Tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc được biểu hiện rõ nét, sống động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội:

Trong bảo vệ Tổ quốc: Toàn dân tộc đồng lòng, thống nhất ý chí để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo, biên giới, an ninh quốc gia trong bối cảnh địa chính trị phức tạp. Các phong trào như “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” đã khuyến khích mọi người dân chủ động tham gia vào việc giữ gìn trật tự, an ninh địa phương, phát hiện và tố giác tội phạm, cũng như tích cực tuyên truyền về chủ quyền quốc gia.

Trong giữ gìn và phát huy văn hóa: Sự tham gia nhiệt tình của 54 dân tộc anh em vào các hoạt động bảo tồn văn hóa, phục dựng lễ hội truyền thống, phát huy di sản phi vật thể đã khẳng định không chỉ tinh thần đại đoàn kết mà còn là sự tôn trọng sâu sắc đối với sự đa dạng văn hóa độc đáo của Việt Nam. Các dự án cộng đồng về bảo tồn ngôn ngữ, trang phục truyền thống, ẩm thực dân tộc là minh chứng sống động.

Trong đối phó với thiên tai, dịch bệnh và khủng hoảng: Truyền thống “tương thân tương ái”, “nhường cơm sẻ áo” được thể hiện rõ nét và mạnh mẽ nhất. Trong đại dịch COVID-19 vừa qua, phong trào quyên góp, cứu trợ, hỗ trợ lẫn nhau, ATM gạosiêu thị 0 đồng đã cho thấy sự đồng lòng, sẻ chia của cả dân tộc trong mọi khó khăn, thử thách, tạo nên lá chắn vững chắc bảo vệ cộng đồng.

Trong phát triển kinh tế - xã hội: Tinh thần đoàn kết còn được thể hiện qua sự đồng thuận trong triển khai các dự án lớn mang tầm quốc gia như xây dựng cơ sở hạ tầng, các phong trào thi đua lao động sáng tạo, khởi nghiệp, chung sức xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, góp phần tạo nên những kỳ tích phát triển kinh tế.

Phát huy sức mạnh tinh thần đại đoàn kết trong kỷ nguyên mới đòi hỏi phải chuyển hóa tinh thần này thành động lực hữu hình, gia tăng sự đồng thuận, đồng lòng của mọi tầng lớp xã hội, hướng đến mục tiêu chung cao cả là xây dựng quốc gia hùng cường, thịnh vượng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, và nâng cao chất lượng cuộc sống cho mọi người dân.

2.2. Thành tựu và hạn chế trong phát huy sức mạnh đại đoàn kết

Trong suốt quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã đạt được những thành tựu to lớn, mang tính nền tảng:

Về vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam: Đảng đã luôn coi việc giữ gìn đoàn kết nhất trí là sinh mệnh của Đảng, là hạt nhân, cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Đảng luôn giữ vững vai trò lãnh đạo, định hướng chiến lược, kịp thời ban hành các chủ trương, nghị quyết quan trọng nhằm củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết trong mọi giai đoạn lịch sử.

Về vai trò của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Nhà nước đã tích cực thể chế hóa các đường lối, chủ trương của Đảng thành hệ thống pháp luật, chính sách cụ thể, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho việc thực hiện đại đoàn kết. Công tác cải cách hành chính được đẩy mạnh, phòng chống tham nhũng, tiêu cực được triển khai quyết liệt, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân vào sự công minh, liêm chính của bộ máy nhà nước. Các chính sách an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, chăm sóc người có công được quan tâm, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đến mọi tầng lớp nhân dân.

Về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Mặt trận Tổ quốc đã phát huy mạnh mẽ vai trò là liên minh chính trị rộng lớn nhất, là nơi tập hợp, đoàn kết mọi lực lượng xã hội, lắng nghe và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng chính đáng của nhân dân đến Đảng và Nhà nước. Mặt trận đã tích cực triển khai các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động lớn như “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, góp phần huy động sức dân vào các mục tiêu phát triển chung.

Tuy nhiên, trước những thách thức phức tạp của kỷ nguyên mới như toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu, cách mạng công nghiệp 4.0 và các vấn đề xã hội nảy sinh, việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết vẫn còn một số hạn chế:

Một số cấp ủy đảng chưa làm tốt công tác dự báo, chưa nắm bắt kịp thời và đầy đủ tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, đặc biệt là trong các vấn đề nhạy cảm như đất đai, môi trường. Một bộ phận cán bộ, đảng viên còn biểu hiện xa dân, hành dân, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, ảnh hưởng đến uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng.

Việc thể chế hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng thành chính sách, pháp luật còn chậm trễ, đôi khi chưa sát với thực tiễn. Việc thực thi pháp luật còn chưa nghiêm minh, thiếu nhất quán ở một số nơi. Hiện tượng lúng túng trong điều hành và quản lý, đặc biệt trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, đất đai, quy hoạch đô thị, gây ra những bức xúc, bất bình và giảm sút niềm tin trong xã hội. Tình trạng trên nóng dưới lạnh còn diễn ra.

Vai trò đại diện, giám sát và phản biện xã hội cho các tầng lớp nhân dân có lúc, có nơi chưa được phát huy đầy đủ, hiệu quả. Một số cán bộ còn biểu hiện quan liêu, hành chính hóa, chưa thực sự gần gũi, sâu sát với nhân dân, ảnh hưởng đến sức lan tỏa và lòng tin của nhân dân đối với Mặt trận và các tổ chức thành viên. Hoạt động tập hợp, đoàn kết các giai tầng xã hội, đặc biệt là các nhóm xã hội mới, giới trẻ, người Việt Nam ở nước ngoài, còn cần nhiều đổi mới và sáng tạo hơn.

2.3. Giải pháp tăng cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết trong kỷ nguyên mới

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm và vai trò gương mẫu của các chủ thể.

Để củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chúng ta cần tập trung nâng cao nhận thức, trách nhiệm và vai trò gương mẫu của các chủ thể. Đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, đây là yếu tố then chốt. Cần kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, cũng như các biểu hiện tự diễn biếntự chuyển hóa trong nội bộ Đảng. Xây dựng một đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, luôn gần dân, hiểu dân, trọng dân và thực sự gương mẫu trong mọi lời nói và hành động. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thực thi kỷ luật Đảng một cách nghiêm minh là điều cần thiết để giữ vững sự trong sạch của bộ máy.

Đối với toàn xã hội, cần đẩy mạnh công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, truyền thống yêu nước, tự hào dân tộc và những giá trị văn hóa cao đẹp của Việt Nam trong mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Điều này giúp bồi dưỡng và củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước thông qua những hành động cụ thể, thiết thực và hiệu quả.

Bên cạnh đó, việc tạo dựng một không khí dân chủ, đồng thuận trong xã hội là vô cùng quan trọng. Cần khuyến khích đối thoại cởi mở, lắng nghe đa chiều, tôn trọng những ý kiến khác biệt mang tính xây dựng. Tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia đóng góp ý kiến vào quá trình hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, từ đó phát huy trí tuệ tập thể và củng cố sự gắn kết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Hai là, khắc phục tác động tiêu cực của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

Để phát huy tối đa sức mạnh đại đoàn kết trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cần chủ động khắc phục những tác động tiêu cực từ kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế. Trước hết, cần tập trung giải quyết các vấn đề xã hội còn tồn đọng. Thực hiện hiệu quả các biện pháp nhằm giảm thiểu sự phân hóa giàu nghèo, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền, và đảm bảo công bằng xã hội trong phân phối thành quả phát triển. Đặc biệt, cần chú trọng đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục, y tế, và các chính sách an sinh xã hội, để đảm bảo rằng không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển chung của đất nước.

Đồng thời, việc bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là nhiệm vụ thiết yếu. Chúng ta phải kiên quyết ngăn chặn sự xâm nhập của các luồng văn hóa độc hại, không phù hợp, đồng thời chủ động tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu thêm bản sắc của mình. Cần khuyến khích phát triển công nghiệp văn hóa và truyền thông số để lan tỏa rộng rãi các giá trị văn hóa Việt Nam. Đồng thời, tận dụng tối đa những mặt tích cực của mạng xã hội và công nghệ thông tin để kết nối cộng đồng, tăng cường hiểu biết và đồng thuận xã hội. Bên cạnh đó, việc xây dựng một “không gian số” lành mạnh là tối quan trọng. Cần quản lý hiệu quả các nền tảng mạng xã hội, kiên quyết đấu tranh với các thông tin sai lệch, xuyên tạc, thù địch nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo vệ sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước.

Ba là, nâng cao hiệu quả các phương thức phát huy sức mạnh đại đoàn kết.

Để không ngừng củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, chúng ta cần nâng cao hiệu quả các phương thức hiện có. Trước hết, công tác giáo dục, tuyên truyền cần được đổi mới mạnh mẽ. Việc sử dụng đa dạng các kênh truyền thông, kết hợp ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại như mạng xã hội, trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo/thực tế tăng cường (VR/AR) sẽ giúp truyền tải thông điệp về đại đoàn kết một cách hấp dẫn, gần gũi, đặc biệt thu hút giới trẻ. Đồng thời, cần tăng cường tổ chức các hình thức hoạt động cộng đồng, văn hóa, thể thao để tạo sự kết nối, gắn bó giữa người dân. Đồng thời, việc hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đóng vai trò then chốt. Cần rà soát, bổ sung, sửa đổi kịp thời các văn bản pháp luật, chính sách còn chồng chéo, nhiều kẽ hở, đảm bảo tính công khai, minh bạch, công bằng và bình đẳng trong xã hội. Đặc biệt, cần chú trọng xây dựng và thực thi các chính sách liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo, và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mọi người dân. Cuối cùng, cần xây dựng cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân một cách nhanh chóng, hiệu quả, tránh để tồn đọng gây bức xúc trong nhân dân, từ đó củng cố niềm tin và sự đồng thuận xã hội.

Bốn là, tiếp tục hoàn thiện vai trò của Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc.

Để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là yếu tố then chốt. Điều này đòi hỏi Đảng phải không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của từng tổ chức đảng và mỗi đảng viên. Mục tiêu xuyên suốt là xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Song hành với đó, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân là nhiệm vụ cấp bách. Chúng ta cần đẩy mạnh cải cách thể chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên mọi lĩnh vực. Xây dựng một nền hành chính chuyên nghiệp, công khai, minh bạch, liêm chính, kiến tạo phát triển và lấy sự hài lòng của nhân dân làm thước đo cao nhất. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cũng vô cùng quan trọng. Cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và phương thức hoạt động để các tổ chức này thực sự trở thành cầu nối vững chắc, tin cậy giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nâng cao vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các thành viên, các tầng lớp nhân dân. Đặc biệt, cần phát huy hơn nữa vai trò tập hợp, đoàn kết, khơi dậy tiềm năng và sức mạnh của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, hướng về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

3. Kết luận

Đại đoàn kết toàn dân tộc là một trong những truyền thống quý báu nhất, là động lực nội sinh không thể thiếu, là sức mạnh vô song của dân tộc Việt Nam. Trong bối cảnh kỷ nguyên mới đầy biến động nhưng cũng nhiều cơ hội, việc tiếp tục củng cố và phát huy sức mạnh này là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, mang ý nghĩa chiến lược để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, hiện thực hóa khát vọng phát triển phồn vinh, hạnh phúc. Điều này đòi hỏi sự tăng cường không ngừng nghỉ trong sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý hiệu quả của Nhà nước và vai trò nòng cốt, đổi mới của Mặt trận Tổ quốc trong việc tập hợp mọi lực lượng, phát huy tối đa vai trò làm chủ của nhân dân. Bằng cách kết hợp hài hòa, đồng bộ giữa giáo dục, chính sách pháp luật tiến bộ, các hoạt động kinh tế sáng tạo và phát huy giá trị văn hóa độc đáo, chúng ta sẽ tạo nền tảng vững chắc để toàn dân tộc đoàn kết một lòng, chung tay xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hùng cường, thịnh vượng. Hãy luôn ghi nhớ sâu sắc lời căn dặn thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn” (4). Đây là bài học lịch sử, là kim chỉ nam cho tương lai của dân tộc.

Trung tá Nguyễn Hữu Ánh

Khoa Quân sự địa phương, Học viện Lục quân, Bộ Quốc phòng


Tài liệu tham khảo:

(1). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.103-104.

(2). Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24-11-2023, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn.

(3). Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.272.

(4). Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 3Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.256.