Để quốc kỳ của Việt Nam ghi đậm dấu ấn trên bản đồ thế giới

Thứ bảy, 02/01/2021 - 07:05

Để quốc kỳ của Việt Nam sẽ xuất hiện ở nhiều khu vực, nhiều sự kiện lớn trên thế giới, khẳng định một Việt Nam hòa bình là đối tác tin cậy và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Chính phủ và quân đội đang có nhiều sự chuẩn bị tốt nhất để cùng đất nước bước vào giai đoạn phát triển, hội nhập quốc tế.


Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Ảnh: VGP/Hải Minh

Nhân dịp năm mới 2021, Báo Điện tử Chính phủ đã có cuộc trao đổi với Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, về những thành tựu của đối ngoại quốc phòng trong kết quả đối ngoại chung của đất nước, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế trong nhiệm kỳ này của Chính phủ.

Xây dựng lòng tin

Xin Thứ trưởng cho biết công tác đối ngoại quốc phòng đã góp phần nâng cao uy tín, vị thế của quân đội và đất nước trên trường quốc tế trong những năm gần đây như thế nào?

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh: Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ Đảng, chế độ, nhân dân nhưng quan trọng nhất là bảo vệ hòa bình. Chúng ta đang bảo vệ Tổ quốc là biện pháp hòa bình và mục tiêu là giữ gìn hòa bình cho đất nước. Chính vì vậy, đối ngoại nói chung, trong đó có đối ngoại quốc phòng được đặt ở vị trí rất quan trọng.

Đối ngoại quốc phòng là một bộ phận của đối ngoại đất nước trên lĩnh vực quốc phòng. Đối ngoại quốc phòng trong tình hình hiện nay luôn phải cảnh giác trong ngăn ngừa chiến tranh, đẩy lùi nguy cơ xung đột, đây là yêu cầu hàng đầu để đất nước phát triển.

Thành tựu của đối ngoại quốc phòng trong thời gian vừa qua phải nhìn vào tình hình ổn định của đất nước, vào sự bền vững của hòa bình, vào việc đẩy lùi thách thức và chiến tranh, xung đột.

Trong những năm vừa qua, đất nước ta hòa bình, ổn định, giữ được quan hệ với tất cả các nước trên thế giới và những thách thức về quốc phòng, an ninh ngày càng được đẩy lùi. Đặc thù của Việt Nam là chúng ta có hòa bình nhưng cũng có những thách thức rất lớn mà chúng ta phải xử lý, đặc biệt là vấn đề Biển Đông khi chúng ta vừa phải bảo vệ được chủ quyền, vừa bảo vệ được pháp luật trên vùng biển Việt Nam theo luật pháp quốc tế quy định. Nhưng chúng ta cũng giữ được hòa khí với các nước có liên quan, được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Bên cạnh đó, có những vấn đề như an ninh phi truyền thống và an ninh mạng hoặc thiên tai, bão lụt, dịch bệnh, nếu chúng ta làm tốt đối ngoại quốc phòng sẽ khắc phục được hậu quả chiến tranh, mới ngăn ngừa được các vấn đề về an ninh mạng, mới hợp tác để phòng và chống các dịch bệnh như COVID-19.

Đặc trưng của đối ngoại quốc phòng là xây dựng lòng tin. Lực lượng quân sự là lực lượng chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc, nhưng trong thời bình thì đây lại là lực lượng rất đặc biệt bảo vệ hòa bình, tình hữu nghị giữa các quốc gia bằng sự hợp tác, cam kết không sử dụng vũ lực trong mọi vấn đề của quan hệ quốc tế. Chính vì đặc trưng đó, những năm gần đây không chỉ nước ta mà tất cả các nước trên thế giới rất quan tâm đến lĩnh vực đối ngoại quốc phòng.

Trong đối ngoại quốc phòng, ta luôn nhất quán đường lối độc lập, tự chủ, kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa theo phương châm “thêm bạn, bớt thù”; xác định rõ “đối tượng, đối tác” để vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cố gắng gia tăng hợp tác, tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, lệ thuộc. Ta luôn coi đối ngoại quốc phòng là một trong những trụ cột để thúc đẩy quan hệ chính trị, xây dựng lòng tin, đồng thời là diễn đàn trực tiếp để hợp tác và đấu tranh nhằm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, độc lập tự chủ, chế độ chính trị XHCN của chúng ta.

Ta thúc đẩy hợp tác quốc phòng song phương với từng nước và với các tổ chức - một lĩnh vực vốn được coi là nhạy cảm - song không đi với nước này để chống nước kia, không vì các đối tác hiện tại mà quên đi các nước bạn bè ân nghĩa. Đến nay chúng ta đã có quan hệ về mặt quốc phòng quân sự với hơn 80 quốc gia trên thế giới. Quan hệ đối ngoại quốc phòng song phương của Việt Nam dựa trên nguyên tắc là phải có nội dung thực chất, đem lại hiệu quả thiết thực cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Về đối ngoại đa phương, trong những năm qua, hợp tác quốc phòng có những bước tiến vượt bậc. Ta đã tham gia tích cực, có trách nhiệm và đóng góp nhiều sáng kiến tại các diễn đàn quân sự, quốc phòng khu vực và quốc tế... Thông qua đối ngoại quốc phòng đa phương, Việt Nam khẳng định được vai trò, trách nhiệm của mình cũng như thể hiện tốt các cam kết với cộng đồng quốc tế. Đối ngoại quốc phòng đa phương đã thực sự trở thành diễn đàn đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc và xây dựng được lòng tin chiến lược với bạn bè quốc tế về một Việt Nam yêu chuộng hòa bình, luôn tôn trọng các cam kết quốc tế.

Hai đề nghị bất ngờ của Liên Hợp Quốc

Thứ trưởng có thể điểm lại những hoạt động đối ngoại quốc phòng nổi bật trong những năm gần đây với sự lãnh đạo xuyên suốt của Đảng, Nhà nước và Chính phủ.

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh: Những năm qua, chúng ta đã làm tốt công tác tham mưu với Đảng, Nhà nước giải quyết các vấn đề liên quan đến an ninh quốc phòng trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là việc bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ và xử lý các tình huống trên Biển Đông; tham mưu, đề xuất các lĩnh vực và mức độ hợp tác quốc phòng phù hợp với từng đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, nhạy cảm, tạo thế cân bằng chiến lược, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc.

Về quan hệ song phương, chúng ta tiếp tục xử lý tốt quan hệ quốc phòng với các nước, đặc biệt là các nước lớn, tạo thế đan xen chiến lược, góp phần tạo môi trường hòa bình cho công cuộc đổi mới đất nước, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, chế độ XHCN, bảo vệ nhân dân; bảo vệ thành quả cách mạng.

Đối ngoại biên giới là một trong những điểm sáng của đối ngoại quốc phòng trong những năm gần đây. Bộ đội Biên phòng, các Quân khu giáp biên có nhiều cách làm sáng tạo, hiệu quả trong quan hệ, hợp tác với đơn vị, chính quyền và nhân dân nước bạn, như tăng cường tuần tra chung, kết nghĩa đồn - trạm, trao đổi kinh nghiệm quản lý biên giới, tăng cường giao lưu biên giới... Đặc biệt, từ hiệu quả thiết thực của mô hình “Giao lưu Hữu nghị Quốc phòng biên giới” với Trung Quốc, ta đã nhân rộng với Lào và Campuchia; tổ chức “Giao lưu biên cương thắm tình hữu nghị” giữa lực lượng bảo vệ biên giới của Việt Nam, Trung Quốc, Lào và Campuchia... Qua đó, góp phần quan trọng vào việc xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định và phát triển.

Trong những năm qua, đối ngoại quốc phòng đa phương tiếp tục có những bước phát triển mạnh mẽ cả về lượng và chất. Từ chỗ chỉ tham gia với tư cách là quan sát viên, khách mời danh dự, Việt Nam đã tích cực tham gia và đang từng bước chủ động đóng góp xây dựng và hoạch định chính sách, đề xuất nhiều sáng kiến tại các cơ chế hợp tác về quốc phòng, an ninh chủ yếu của khu vực như Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM), ADMM+, Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) và các diễn đàn đối thoại quốc phòng, an ninh quan trọng khác, góp phần nâng cao vị thế và vai trò của đất nước, Quân đội trên trường quốc tế đồng thời tạo được sự ủng hộ của các nước đối với lợi ích chính đáng của Việt Nam trên Biển Đông.

Một trong những điểm nổi bật của đối ngoại quốc phòng đa phương thời gian qua là Việt Nam chính thức tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc. Việc này thể hiện cam kết nghiêm túc và lâu dài của Việt Nam nhằm đóng góp vào công cuộc gìn giữ và kiến tạo hòa bình trên thế giới, thể hiện Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế trong việc thực hiện các nghĩa vụ của một quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc, qua đó góp phần nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Cho đến nay, tất cả các lực lượng của ta tại các Phái bộ lực lượng gìn giữ hòa bình ở Liên Hợp Quốc đã và đang hoàn thành tốt nhiệm vụ, được Liên Hợp Quốc đánh giá cao, góp phần khẳng định vai trò của Việt Nam với cộng đồng quốc tế nói chung, hoạt động lực lượng gìn giữ hòa bình ở Liên Hợp Quốc nói riêng.

Trong nhiệm kỳ này, Chính phủ đã dành sự quan tâm lớn đến đối ngoại quốc phòng. Chưa bao giờ trong một nhiệm kỳ, Chính phủ ra 3-4 Nghị định về đối ngoại và hợp tác quốc tế về quốc phòng. Lần đầu tiên Chính phủ có Nghị định về Tiêu chuẩn, chế độ cho lực lượng gìn giữ hòa bình. Chính phủ ra quyết định về tăng cường hợp tác đối ngoại quốc phòng với Lào, Campuchia. Đặc biệt, Chính phủ đã đề nghị Quốc hội thông qua Nghị quyết về hoạt động gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc. Những văn bản pháp lý của Chính phủ, Quốc hội đã ban hành trở thành “điểm tựa” cho hợp tác quốc tế về quốc phòng.
Bên cạnh đó, ứng xử và chủ trương của Chính phủ rất mạnh và rất quyết liệt. Ví dụ trong năm 2020, Chính phủ quy định rất rõ chúng ta làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thì phải làm tốt, làm cụ thể những gì. Với vai trò Chủ tịch ASEAN, cần phải ra một tuyên bố chung, trong đó có những vấn đề rất cơ bản về an ninh đất nước.

Tất cả các hội nghị quốc phòng, quân sự đều dựa trên những văn kiện, nội dung mà hội nghị cấp cao trong năm Chủ tịch ASEAN đề ra.

Có những quyết định của Chính phủ đã đem lại hiệu quả rất rõ, ví dụ như Chỉ thị của Chính phủ về phòng, chống dịch COVID-19. Có một điều thú vị ít người biết là khi dịch COVID-19 bắt đầu lan trên thế giới, Liên Hợp Quốc chưa hề có động thái gì, lực lượng gìn giữ hòa bình của chúng ta cũng không hề có chỉ thị nào của Liên Hợp Quốc về phòng, chống dịch COVID-19. Nhưng Bộ Quốc phòng đã chỉ thị cho lực lượng của chúng ta, đặc biệt là bệnh viện dã chiến cấp 2, thực hiện đúng Chỉ thị 16 của Chính phủ với nhưng nội dung rất cụ thể. Khi mới thực hiện, những quy định của chúng ta bị Liên Hợp Quốc phản ứng vì không đúng với quy định của Liên Hợp Quốc và bị cho là quá cứng nhắc. Nhưng chỉ sau khoảng 2 tuần, Liên Hợp Quốc đã thừa nhận những việc chúng ta làm là đúng và sau đó những quy định này trở thành quy định chung của Liên Hợp Quốc ở tất cả các phái bộ gìn giữ hòa bình. Điều đó cho thấy, Việt Nam đóng góp một phần không nhỏ cho việc phòng, chống dịch COVID-19 của lực lượng gìn giữ hòa bình ở Liên Hợp Quốc nhờ Chỉ thị của Chính phủ.

Khi hội đàm với tôi, Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc cảm ơn Chính phủ Việt Nam đã đưa ra Chỉ thị mang tính tiên phong và các lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc đã cơ bản an toàn nhờ kinh nghiệm của Việt Nam. Trên cơ sở phòng, chống dịch COVID-19 tại Việt Nam, Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc đề nghị hai việc. Một là, thành lập một bệnh viện xét nghiệm dịch COVID-19 ở Nam Sudan – đây là đề nghị rất bất ngờ. Hai là, đề nghị Việt Nam lập bệnh viện dã chiến cấp 3 tại Việt Nam để chữa cho lực lượng gìn giữ hòa bình mắc COVID-19. Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc cho biết có rất nhiều nước đăng ký làm những việc này, trong đó có những nước rất phát triển, nhưng Liên Hợp Quốc lựa chọn Việt Nam bởi những gì họ đã thấy cũng như những gì ta đã đóng góp với lực lượng gìn giữ hòa bình trong phòng chống COVID-19.

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Ảnh: VGP/Hải Minh

Kết quả của đối ngoại quốc phòng 2020

Thứ trưởng đánh giá gì về thành tựu lớn của năm Chủ tịch ASEAN 2020 trong việc quảng bá hình ảnh quốc phòng, quân sự Việt Nam đối với bạn bè quốc tế?

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh: Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, bám sát phương châm chỉ đạo “gắn kết và chủ động thích ứng”, với quyết tâm chính trị, sự tích cực, chủ động, vai trò dẫn dắt và điều phối của nước Chủ tịch và sự đoàn kết của các nước ASEAN, chúng ta đã hoàn thành tất cả các ưu tiên, sáng kiến đặt ra. Trong đó, đã tổ chức thành công các Hội nghị quân sự, quốc phòng ASEAN, bảo đảm hiệu quả, thực chất về nội dung; trọng thị, chu đáo về lễ tân; tuyệt đối an toàn về an ninh, y tế, an ninh mạng. Các sáng kiến Việt Nam đưa ra tại các hội nghị lần này đều nhận được sự đồng thuận cao của các nước. Đặc biệt, khi COVID-19 còn chưa được Tổ chức Y tế Thế giới coi là một đại dịch toàn cầu, chúng ta đã kịp thời đề xuất và tham vấn các nước để ASEAN ra Tuyên bố chung về hợp tác quốc phòng trong ứng phó dịch bệnh tại Hội nghị hẹp Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN vào tháng 2/2020, tại Hà Nội, làm cơ sở, nền tảng quan trọng để quân đội các nước ASEAN đề xuất, triển khai nhiều sáng kiến trong phòng, chống, kiểm soát dịch bệnh cũng như hoạt động hợp tác giữa quân đội các nước ASEAN, phù hợp với bối cảnh mới.

Khép lại năm Chủ tịch ASEAN 2020, Bộ Quốc phòng đã tổ chức thành công Hội nghị ADMM-14, ADMM+ lần thứ 7 và Lễ kỷ niệm 10 năm thành lập ADMM+ với việc ra Tuyên bố chung của Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN về Hợp tác quốc phòng vì một ASEAN gắn kết và chủ động thích ứng (ADMM-14); Tuyên bố chung Bộ trưởng Quốc phòng các nước ADMM+ về Tầm nhìn chiến lược an ninh của ADMM+ (ADMM+ lần thứ 7). Điều này có ý nghĩa rất lớn, khẳng định tầm quan trọng của cơ chế ADMM, ADMM+, thể hiện sự đoàn kết, thống nhất cao, cam kết và quyết tâm mạnh mẽ của các quốc gia thành viên ASEAN và ADMM+ trong tăng cường hợp tác quốc phòng, đóng góp hiệu quả cho hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực và trên thế giới.

Có thể nói, việc các nước phối hợp rất chặt chẽ với chúng ta để tổ chức thành công các hội nghị quân sự, quốc phòng cũng như triển khai các hoạt động hợp tác trong năm 2020 đã thể hiện sự ủng hộ rất cao của các nước đối với năm Việt Nam đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN. Đồng thời, điều đó cũng thể hiện rõ uy tín, vị thế của chúng ta, ‎được các nước ASEAN và đối tác lắng nghe, đạt được sự đồng thuận cao trong triển khai các kế hoạch, chương trình, sáng kiến đề ra trong năm 2020, góp phần tích cực nâng cao vai trò, vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

Trong năm 2020, đại dịch COVID-19 khiến thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, đòi hỏi các hoạt động đối ngoại quốc phòng phải thay đổi linh hoạt như thế nào để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đề ra?

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh: Trong năm 2020, khi dịch COVID-19 xuất hiện, Chính phủ đã phát hiện vấn đề sớm và có dự báo sớm – đó là nguyên nhân đầu tiên khiến cho sự thành công trong chống dịch COVID-19 nói chung. Trên cơ sở đó, quốc phòng phải thay đổi trong tất cả các hoạt động, trong đó có đối ngoại quốc phòng. Chúng ta đã xác định không thể không có hợp tác quốc tế trong phòng chống dịch COVID-19 cũng như không thể không có hợp tác đối ngoại quốc phòng trong dịch COVID-19. Vì vậy, chúng ta đã vận động để 10 nước ASEAN ra tuyên bố chung về hợp tác quốc phòng phòng chống dịch COVID-19. Chúng ta siết rất chặt các quy chế, quy định của Chính phủ về phòng, chống dịch bệnh trong hoạt động đối ngoại. Tất cả các đoàn đi nước ngoài hay các đoàn về nước, nhất là lực lượng gìn giữ hòa bình ở châu Phi trở về, cũng đều không ai bị bệnh.

Có thể nói, đại dịch COVID-19 đã làm thay đổi toàn bộ chương trình hoạt động đối ngoại quốc phòng dự kiến trong năm 2020, cả song phương và đa phương. Để thích nghi với tình hình mới, các cơ quan chức năng đã phải điều chỉnh lại tất cả kế hoạch. Về hình thức tổ chức, ta chuyển phần lớn các hoạt động đối ngoại song phương và đa phương, nhất là các hội nghị quân sự, quốc phòng trong năm Việt Nam đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN, từ trực tiếp sang trực tuyến. Bên cạnh các nội dung theo kế hoạch, chúng ta chủ động, kịp thời đề xuất các nội dung hợp tác mới, phù hợp với tình hình đại dịch COVID-19, như là chia sẻ kinh nghiệm về công tác phòng, chống dịch, nghiên cứu sản xuất vaccine, hỗ trợ trang thiết bị y tế, tổ chức Diễn tập trực tuyến xử lý tình huống về phòng chống dịch COVID-19 giữa Quân y các nước ASEAN...

Ổn định và phát triển là giá trị cốt lõi

Để quốc kỳ của Việt Nam xuất hiện ở nhiều khu vực, nhiều sự kiện lớn trên thế giới, khẳng định một Việt Nam hòa bình là đối tác tin cậy và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Chính phủ và quân đội cần chuẩn bị như thế nào để cùng đất nước bước vào giai đoạn tăng cường hội nhập quốc tế?

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh: Nhiệm vụ và mục tiêu của đối ngoại quốc phòng là xây dựng lòng tin, ngăn ngừa xung đột, bảo vệ môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo vệ chủ quyền lãnh thổ Tổ quốc; thu hút các nguồn lực từ bên ngoài để xây dựng quân đội, tăng cường khả năng phòng thủ quốc gia.

Để thực hiện được nhiệm vụ đó, trước hết, quân đội phải chủ động nghiên cứu, nắm chắc tình hình thế giới, khu vực, kịp thời tham mưu xử lý các vấn đề liên quan đến hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, vấn đề Biển Đông, không để bị động, bất ngờ.

Tiếp tục coi trọng cả quan hệ hợp tác quốc phòng song phương và đa phương. Trong đó, tiếp tục ưu tiên quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn, các nước ASEAN và các nước bạn bè truyền thống, tập trung vào một số lĩnh vực như trao đổi đoàn cấp cao; đào tạo cán bộ; khắc phục hậu quả chiến tranh; tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn; quân y, đào tạo; nghiên cứu chiến lược, khoa học công nghệ; công nghiệp quốc phòng, an ninh; an ninh biển; kiểm soát dịch bệnh... Đặc biệt, cần tăng cường vận động các nguồn lực từ bên ngoài phục vụ công tác khắc phục hậu quả chiến tranh, góp phần vào việc phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ môi trường và ổn định đời sống nhân dân.

Tiếp tục chủ động, tích cực tham gia các cơ chế, diễn đàn quốc phòng, quân sự đa phương do ASEAN giữ vai trò trung tâm; tham gia vào việc xây dựng, định hình, củng cố các cơ chế, luật pháp, chuẩn mực duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, ngăn ngừa xung đột, đẩy mạnh hợp tác cùng có lợi. Tiếp tục cử lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc.

Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại quốc phòng; tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đối ngoại quốc phòng, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới; phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương triển khai công tác đối ngoại quốc phòng; tiếp tục bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại quốc phòng nắm chắc luật pháp quốc tế, thông thạo ngoại ngữ, địa bàn và công nghệ thông tin..., đảm bảo có đủ trình độ, khả năng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ hợp tác quốc tế và đối ngoại quốc phòng cả trước mắt và lâu dài.

Theo tôi, thế giới đã nhìn vào Việt Nam với con mắt rất tốt đẹp, về ổn định chính trị và đà tăng trưởng của kinh tế và quan hệ đối ngoại, trong đó có quan hệ quốc phòng an ninh. Vấn đề của chúng ta hiện nay là phải ổn định và phát triển thì sẽ được bạn bè quốc tế quý trọng và cư xử tốt đẹp. Đất nước không ổn định và phát triển chúng ta cũng mất đi những điều tin cậy, tình cảm mà cộng đồng quốc tế dành cho chúng ta.

Trong thời gian vừa qua, khi tiếp xúc với các quốc gia, tôi thấy chính sách độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa là bảo bối cho tất cả các quốc gia muốn có được độc lập, tự chủ, toàn vẹn lãnh thổ. Đường lối đối ngoại đó của chúng ta là duy nhất đúng với tất cả các quốc gia. Tuy nhiên, cần phải có sự lãnh đạo tập trung của Đảng, Nhà nước, phải có sức mạnh từ lịch sử, từ quá khứ, đất nước phải phát triển, ổn định thì chúng ta sẽ có quan hệ quốc tế rất tốt đẹp, phục vụ cho phát triển đất nước.

Phương Liên/Chinhphu