Đổi thay cuộc sống từ công nghệ: Hướng đi bền vững trong giảm nghèo tại Việt Nam

Thứ bảy, 27/09/2025 - 00:00

Khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang từng bước khẳng định vai trò then chốt, mang tính quyết định đối với sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Những thành tựu đạt được đã đóng góp sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, từ y tế, nông nghiệp, công nghiệp, công nghệ thông tin cho tới quốc phòng – an ninh, tạo động lực quan trọng cho tăng trưởng và an sinh xã hội.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Tại nhiều vùng nông thôn, miền núi, việc ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ đã mở ra những hướng đi mới, giúp người dân thoát khỏi lối sản xuất manh mún, lạc hậu với năng suất thấp. Trước đây, ở xã Sơn Linh (tỉnh Quảng Ngãi), phần lớn người dân sống dựa vào cây keo, cây mì – những loại cây cho hiệu quả kinh tế không cao và tiềm ẩn nguy cơ suy thoái đất. Trong bối cảnh đó, anh Đinh Văn Thơ đã mạnh dạn thay đổi tư duy sản xuất, lựa chọn phát triển mô hình nông nghiệp thông minh.

Trên diện tích hơn 3.000 m² đất đồi vốn chỉ trồng keo và mì, anh Thơ chuyển sang trồng ổi xen bưởi da xanh – các loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao. Song song với đó, hệ thống tưới phun hiện đại được lắp đặt thay thế cho cách tưới thủ công truyền thống. Giải pháp này giúp tiết kiệm nước, giảm công lao động, duy trì độ ẩm ổn định cho đất và hạn chế xói mòn, hướng tới mô hình canh tác thân thiện với môi trường.

Không dừng lại ở việc áp dụng công nghệ tưới, anh Thơ còn chủ động học hỏi và triển khai các biện pháp canh tác bền vững như bón phân cân đối, tỉa cành hợp lý, phòng trừ sâu bệnh bằng phương pháp sinh học. Đồng thời, anh tích cực chia sẻ kinh nghiệm với bà con trong thôn. Hiện đã có 25 hộ cùng tham gia mô hình trồng cây ăn quả theo hướng bền vững. “Mình học được gì thì chia sẻ lại cho bà con, từ cách tỉa cành, tưới nước đến bón phân sao cho cây phát triển tốt, không bị suy đất”, anh Thơ cho biết.

Việc chuyển đổi mô hình sản xuất không chỉ góp phần bảo vệ tài nguyên đất, nước mà còn tạo sinh kế ổn định cho người dân địa phương. Mỗi mùa thu hoạch, vườn cây của anh Thơ tạo việc làm cho gần 20 lao động thời vụ và khoảng 10 lao động thường xuyên.

Câu chuyện của anh Đinh Văn Thơ là minh chứng sinh động cho hiệu quả của khoa học – công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp. Từ vùng đất khô cằn, nhờ đổi mới tư duy và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, người nông dân đã tạo ra giá trị kinh tế bền vững, đóng góp thiết thực vào công tác giảm nghèo tại địa phương.

Không chỉ trong sản xuất, khoa học – công nghệ còn tạo bước đột phá trong khâu tiêu thụ nông sản. Thực tế cho thấy, khi nông dân chủ động chuyển đổi số, ứng dụng thương mại điện tử, nông sản Việt Nam ngày càng tiếp cận gần hơn với người tiêu dùng, mở ra cơ hội nâng cao giá trị và bảo đảm đầu ra ổn định.

Một điển hình là mô hình nuôi dế thảo mộc tại tỉnh Lâm Đồng do anh Nguyễn Văn Dung khởi xướng. Không chỉ tập trung sản xuất, anh Dung còn thường xuyên chia sẻ quá trình nuôi, thu hoạch và chế biến sản phẩm trên các nền tảng mạng xã hội. Những hình ảnh, video chân thực gắn với công việc hằng ngày đã nhanh chóng thu hút hàng triệu lượt xem và hàng chục nghìn người theo dõi.

“Chúng ta làm gì thì ghi lại đúng cái đó. Chính sự vất vả trên trang trại, ngoài đồng ruộng lại trở thành điểm chạm để khách hàng thấu hiểu và ủng hộ sản phẩm”, anh Dung chia sẻ.

Nắm bắt xu thế phát triển của công nghệ số, anh Dung đã xây dựng ứng dụng bán hàng ATOCO, giới thiệu hơn 20 loại nông sản đặc trưng của huyện Lâm Hà. Việc công khai, minh bạch thông tin về nguồn gốc và quy trình sản xuất giúp sản phẩm từng bước mở rộng mạng lưới phân phối trên các sàn thương mại điện tử.

Việc kết nối nông dân địa phương để đưa sản phẩm lên sàn trực tuyến được xem là cách làm mới, mang lại hiệu quả rõ rệt. “Trước đây gia đình tôi bán sản phẩm theo cách truyền thống, nay nhờ kết nối với anh Dung, sản phẩm đã được đưa lên sàn”, ông Nguyễn Văn Hùng, nông dân xã Hoài Đức chia sẻ.

Đáng chú ý, sản phẩm mật ong của địa phương đã đạt hai chứng nhận quan trọng là OCOP và ISO 22000, đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu. Theo anh Dung, “những chứng chỉ này giúp chúng tôi tự tin liên kết cùng bà con, đưa nông sản lên sàn thương mại điện tử và tiếp cận thị trường rộng lớn hơn”.

Những đổi thay ấy không chỉ nâng cao giá trị nông sản mà còn tăng cường mối liên kết giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Nhờ tối ưu hóa tương tác trực tiếp, nông sản từ các vùng quê đã có cơ hội tiếp cận đông đảo khách hàng trong nước, từng bước hướng ra thị trường quốc tế.

Song song với các mô hình cụ thể ở địa phương, việc thúc đẩy ứng dụng khoa học – công nghệ và chuyển đổi số đã góp phần quan trọng vào kết quả chung của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025.

Theo báo cáo đánh giá, đến cuối năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo cả nước còn 1,93%, giảm 3,27% so với cuối năm 2022, tương ứng mức giảm bình quân 1,03%/năm, đạt mục tiêu đề ra là giảm từ 1 – 1,5%/năm.

Bên cạnh đó, tỷ lệ xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng khó khăn đạt 35,20%, vượt chỉ tiêu 30%. Tỷ lệ trẻ em dưới 16 tuổi bị suy dinh dưỡng thấp còi giảm còn 25,42%, thấp hơn đáng kể so với ngưỡng mục tiêu dưới 34%.

Đáng chú ý, trong giai đoạn này, cả nước đã triển khai hơn 10.500 mô hình sinh kế, vượt xa chỉ tiêu 1.000 mô hình. Hoạt động hỗ trợ kết nối việc làm cũng ghi nhận kết quả tích cực khi hơn 134.000 lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ mới thoát nghèo tìm được việc làm, vượt 34% so với mục tiêu tối thiểu 100.000 lao động.

Những kết quả trên cho thấy công tác giảm nghèo đã được cụ thể hóa bằng các giải pháp đồng bộ, trong đó khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số giữ vai trò then chốt. Sự kết hợp hài hòa giữa chính sách của Nhà nước và sáng kiến từ thực tiễn của người dân đã tạo ra những chuyển biến rõ nét, hướng tới phát triển bền vững.

Chuyên gia Phạm Minh Thu nhận định, công nghệ 4.0 đang mở ra nhiều cơ hội nếu được khai thác hiệu quả. Trước hết, công nghệ tạo ra nhiều ngành nghề mới đòi hỏi kỹ năng hiện đại, mở ra cơ hội vươn lên cho người lao động, kể cả người nghèo, nếu được trang bị kiến thức phù hợp. Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ và tự động hóa không chỉ thay thế một số công việc mà còn giúp nâng cao năng suất, cải thiện thu nhập trong các ngành truyền thống như nông nghiệp, thủ công mỹ nghệ. Đồng thời, công nghệ số góp phần xóa nhòa rào cản địa lý, giúp người dân nghèo tiếp cận thuận lợi hơn với dịch vụ công trực tuyến và các dịch vụ tài chính chính thức, hạn chế rủi ro từ tín dụng đen.

Từ những minh chứng cụ thể và kết quả thực tiễn, có thể khẳng định khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số không chỉ là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, mà còn là chìa khóa mở ra con đường thoát nghèo bền vững cho hàng triệu người dân Việt Nam.