Từ khóa: Trần Nhân Tông, Phái thiền Trúc Lâm Yên Tử, Phật giáo.
- 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dân tộc Việt Nam kể từ buổi đầu dựng nước, giữ nước của các Vua Hùng đến nay đã ghi vào trang sử hào hùng của dân tộc những mốc son lớn đánh dấu sự trưởng thành, lớn mạnh và sự thay đổi về chất của đất nước. Một trong những mốc son chói lọi của thời Nhà Trần - ba lần đánh thắng quân Nguyên Mông (1258, 1285 và 1287), xây dựng nền độc lập tự chủ, đưa Đại Việt trở thành quốc gia hùng cường. Nhà Trần trị vì dân tộc từ năm 1225 và chấm dứt vào năm 1400. Trong các vị vua Trần, mỗi người đều có những vai trò nhất định đối với dân tộc nhưng có lẽ Trần Nhân Tông là vị hoàng đế anh minh, một người văn, võ lớn lao, một anh hùng dân tộc, một vị vua "nhân từ, hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước" [7, tr. 44] đã để lại dấu ấn sâu sắc nhất. Không chỉ vậy, ông còn là người sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, truyền bá Phật pháp này rộng khắp Việt Nam để cứu nước, cứu dân.
- 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Khái quát vài nét về Phật giáo trước thời Trần Nhân Tông
Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm (khoảng thế kỷ I trước công nguyên) và nó được bản địa hóa bởi văn hóa, nếp sống của con người nước ta, có ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội.
Ở Việt Nam, trước khi thiền phái Trúc Lâm ra đời, có rất nhiều dòng thiền đã tồn tại như thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi nghiêng về Ấn Độ, Vô Ngôn Thông nghiêng về Trung Quốc và Thảo Đường của nhà Lý. Dù có nhiều dòng thiền nhưng ở Việt Nam lúc này vẫn chưa có một tổ chức thống nhất và hầu như các dòng thiền này chỉ phù hợp với bậc quân vương, quan lại hay những người có gia thế thuộc giai cấp thống trị và giới thượng lưu. Cuối thời Lý, Việt Nam rơi vào khủng hoảng, vua nhà Lý không đủ sức cai trị cuối cùng dựa vào nhà Trần. Sau khi thâu tóm được quyền lực, với sự sắp xếp của Trần Thủ Độ, Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng và được truyền ngôi khi mới 7 tuổi. Nhà Trần (năm 1225) – đưa Trần Cảnh lên ngôi. Với mong muốn củng cố lực lượng trong nước và tập trung quyền lực, xây dựng triều chính vững mạnh, Nhà Trần tích cực xây dựng quân đội, phát triển nền sản xuất nông nghiệp, khai khẩn đất hoang,... vì vậy đời sống của nhân dân được cải thiện. Bên cạnh đó, để thống nhất non sông về một mối vua Trần Thái Tông có ý đồ xây dựng hệ tư tưởng mới cho triều đại nhà Trần nhưng chưa thực hiện được. Đến thời của Trần Nhân Tông - tháng 8/1299, Ngài xuất gia vào núi Yên Tử tu khổ hạnh ở ngọn Tử Tiêu, pháp hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà, tự là Trúc Lâm Đại Sĩ đã sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Ngài trở thành nhân vật hiếm có trong lịch sử truyền bá đạo Phật tại Việt Nam.
- 2.2. Đóng góp của Trần Nhân Tông trong việc truyền bá phật pháp ở Việt Nam
Trần Nhân Tông (1258 – 1308), "ông không chỉ là vị quân vương mà còn là nhà lãnh đạo Phật giáo; không chỉ là nhà văn hóa mà còn là thiền sư lỗi lạc; không chỉ là nhà chính trị nhìn xa trông rộng mà còn là nhà quân sự có tài; không chỉ là nhà ngoại giao, mà còn là nhà tư tưởng, nhà văn, nhà thơ" [1, tr.119]. Nhận định trên của Nguyễn Hùng Hậu cho thấy Trần Nhân Tông có nhiều đóng góp đối với nước ta, trong đó phải kể đến việc truyền bá phật pháp ở Việt Nam.
Thứ nhất, Trần Nhân Tông xây dựng đạo Phật ở Việt Nam - Thiền phái Trúc lâm Yên Tử nhằm khẳng định nền độc lập dân tộc.
Dân tộc Việt Nam, vốn nhỏ bé nhưng mảnh đất này lại được thiên nhiên ban tặng rừng vàng, biển bạc... vì vậy luôn bị các nước lớn lăm le xâm lược. Chiến thắng cuối cùng của nhà Trần đối với quân Mông – Nguyên vào năm 1288 - Bạch Đằng, đã đẩy lùi quân địch, nước ta giành được độc lập và xưng đế vương Đại Việt tại phủ Long Hưng, thành Thăng Long. Ngày 27 tháng 3 năm Mậu Tý (1288), trong bài "Tức sự" Trần Nhân Tông viết: "Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã, Sơn hà thiên cổ điện kim âu". Dịch thơ:
"Xã tắc đôi phen chồn ngựa đá,Non sông nghìn thuở vững âu vàng" [8, tr. 483]. Qua hai câu thơ trên, Ông đã khái quát lịch sử kháng chiến thời Trần, khẳng định nền độc lập của non sông Việt Nam nghìn năm vẫn vững trãi. Với Ngài, độc lập dân tộc không chỉ được thể hiện ở chủ quyền quốc gia lãnh thổ, các mặt chính trị, kinh tế mà còn thể hiện ở sự độc lập về tư tưởng. Sau khi giành thắng lợi trong cuộc kháng Nguyên năm 1288, năm năm sau Trần Nhân Tông đã nhường ngôi cho con, đi khắp muôn nơi để học hỏi đạo Phật. Tháng 8 năm 1299, Ngài lên núi Yên Tử tu hành lập ra thiền phái Trúc Lâm Yên Tử với nội dung tư tưởng độc lập, thể hiện bản sắc dân tộc, nó nhằm thống nhất ý thức hệ, thu hút các tín ngưỡng khác. Vì vậy, Thiền phái này đã thu phục quần chúng nhân dân. Theo Nguyễn Lang: "Phật giáo Trúc Lâm là một nền Phật giáo độc lập, uy tín tinh thần của nó là uy tín tinh thần quốc gia Đại Việt. Nó là xương sống của một nền văn hoá Việt Nam độc lập. Nền Phật giáo này tuy có tiếp nhận những ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa, Ấn Độ và Tây Tạng nhưng vẫn giữ cá tính đặc biệt của mình" [4, tr. 428]. Nhiều chuyên gia cho rằng, Trúc Lâm Yên Tử là một tông phái Phật giáo Việt Nam thành công nhất trong lịch sử Phật giáo nước ta, là hiện tượng độc đáo riêng có không chỉ của Việt Nam mà còn đóng góp vào kho tàng văn hóa phật giáo thế giới.
Thứ hai, Trần Nhân Tông truyền bá triết lý Phật giáo bằng chữ Nôm nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc, bảo vệ độc lập dân tộc.
Tiếng Việt vốn đã có từ rất lâu cũng trải qua nhiều thử thách, do thiên tai, địch họa, mưu đồ Hán hóa và nhiều nguyên nhân khác nên đã bị phân tán. Đến thời kỳ của vua Trần Nhân Tông, ông đã khôi phục lại nhằm bảo vệ và phát triển văn hóa chữ viết, tiếng nói của người Việt Nam. Khi cuộc kháng chiến cứu nước thành công, Trần Nhân Tông sử dụng chữ Nôm để thực hiện đại xá dân tộc, cải tổ nền giáo dục nước nhà, kể từ đó chữ Nôm được sử dụng và phổ biến rộng rãi trong triều đình cũng như ở nơi dân. Với mục đích chính trị, ông không chỉ coi trọng và đề cao chữ Nôm mà còn "cấp" cho nó tính chất siêu phàm với màu sắc tâm linh để củng cố vị thế của vương triều và dân tộc. Khi còn ngự trị, Ngài đã cho đọc chiếu chỉ bằng hai thứ tiếng đó là tiếng Hán và tiếng Việt nhằm khẳng định nền văn hóa Việt Nam không thể dễ dàng bị đồng hóa bởi nghìn năm đô hộ. Bên cạnh đó, việc viết hai tác phẩm "Cư trần lạc đạo phú" và "Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca" với khoảng 2000 từ vựng ngôn ngữ Việt vừa truyền đạo vừa đặt một mốc son trong lịch sử dân tộc đối với việc giữ gìn và phát triển ngôn ngữ quốc gia để lại giá trị to lớn đối với dân tộc cũng như nền văn học, ngôn ngữ nước nhà, giúp Người Việt dễ dàng đến với giáo lý đạo Phật bằng ngôn ngữ rất dễ hiểu:
"Bụt ở trong nhà,
Chẳng phải tìm xa" [8, tr. 506].
Hoặc "Đắc ý cong lòng,
Cười riêng ha hả.
Công danh chẳng trọng,Phú quý chẳng màng" [8, tr. 533].
Như vậy, với ngôn ngữ chữ Nôm, Trần Nhân Tông đã góp phần giữ gìn, phát huy văn hóa con người Việt Nam. Sự truyền bá Phật pháp dưới hình thức chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm đã góp phần cổ vũ tinh thần người dân Việt Nam về khả năng phát triển những giá trị văn hoá bản địa, nội sinh trong lòng dân tộc.
Thứ ba, Trần Nhân Tông truyền bá phật pháp nhằm đoàn kết toàn dân bảo vệ tổ quốc, xây dựng xã hội phồn thịnh, một nền đạo đức xã hội lành mạnh.Trần Nhân Tông là vị vua yêu nước, anh hùng, rất "thân dân" khi thực hiện "trưng cầu dân ý" – Hội nghị Diên Hồng và "trưng cầu quân ý" – Hội nghị Bình Than để lấy ý kiến đánh giặc, bảo vệ tổ quốc, từ đó ông thuận theo ý dân, sẵn sàng hy sinh bản thân vì dân, vì nước. Do nhận thức rõ nhân dân là nguồn sức mạnh giữ nước, ông luôn tìm mọi cách khơi dậy lòng yêu nước, thương nòi, không phân biệt giai cấp, tầng lớp, tuổi tác..., giúp nhân dân thấy được những lợi ích của mình nằm trong lợi ích của quốc gia dân tộc để giữ vững nền độc lập nước nhà, ông thăng chức cho những người có công với đất nước, xóa bỏ các tội cho những người phạm tội bằng cách cho đốt hết những tội danh trước đó của họ vì vậy, đoàn kết là chính sách ông thực hiện không chỉ bằng lời nói mà bằng hành động thực tế, thu phục được nhân tâm bằng lòng khoan dung, sự độ lượng của đạo Phật. Đặc biệt, ông đã sang tận Chiêm Thành để kết nối tình giao hòa, tạo cơ sở cho quan hệ hữu nghị, hòa bình giữa hai nước bằng việc gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân - vua nước Chiêm. Bởi vậy, non sông Đại Việt đã có thêm hai vùng đất rộng lớn là châu Ô và Rí mà không tốn một cái tên hay mũi đạn nào.
Không chỉ vậy, Trần Nhân Tông "đi khắp mọi nẻo thôn quê, khuyên dân phá bỏ các dâm từ và thực hành giáo lý Thập thiện" [10, tr.20] để trở nên hiền hòa và đạo đức. Vào thời điểm đất nước chưa có hệ thống trường lớp, nhà chùa trở thành trường học dạy các môn học cần thiết cho dân chúng nhằm thực hiện xã hội hóa giáo dục, nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân. Do đó, mỗi Phật tử không chỉ thông thạo kinh điển nhà Phật mà còn phải học những môn khác mới có đủ khả năng giải quyết vấn đề thực tiễn đề ra. Đồng thời ông cũng khuyên con người nhập thế, sống hòa mình với đời, không hành động trái với quy luật tự nhiên, luôn tự tin vào mình, trở về với chính mình, phải luôn giữ lòng trong sạch. Do đó, muốn thành Phật con người phải luôn trau dồi cái tâm của mình, phải nhất tâm, giống như việc đãi cát tìm vàng.
- 2.3. Giá trị lịch sử trong việc truyền bá Phật pháp của Trần Nhân Tông đối với Việt Nam hiện nay
Từ quá trình phân tích trên, chúng ta thấy rằng tư tưởng của Trần Nhân Tông đã để lại những giá trị to lớn đối với nền Phật giáo Việt Nam nói riêng và nền văn hóa của Việt Nam nói chung.
Thứ nhất, theo tôi giá trị lớn nhất ở tư tưởng của Trần Nhân Tông là sử dụng chữ quốc ngữ để truyền bá Phật giáo ở Việt Nam
Chính việc coi trọng chữ Nôm và dùng nó diễn đạt cho tâm tư, nguyện vọng, đời sống của người Việt đã giúp người Trung Quốc hiểu rằng dù cố gắng đồng hóa cũng phí công vô ích. Việc truyền bá Phật giáo bằng chữ Nôm của Ngài đã cho thấy lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có một Phật giáo Nhất Tông mang những đặc điểm riêng, thống nhất về mặt tổ chức hành chính, về tôn chỉ, đường lối, phương pháp tu hành từ trung ương đến cơ sở, thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của Nhà lãnh đạo, người cầm quân của dân tộc. Với tầm nhìn như vậy, ông đã mở ra cho lịch sử Phật giáo Việt Nam hôm nay có một tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam duy nhất đồng hành cùng với dân tộc và hội nhập toàn cầu. Ngày nay, quá trình hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng, nhất là qua những lần tổ chức Lễ hội festival, Phật đản, Phật giáo đã truyền bá bằng ngôn ngữ Việt hạn chế sử dụng các từ Hán Việt. Tôi mong rằng, Kinh Phật được Việt hóa nhiều hơn nữa, các Tăng Ni Phật tử mạnh dạn hơn trong việc dùng tiếng Việt để tụng niệm hằng ngày, trong việc dịch và học Kinh Phật, trong sự nghiệp truyền bá đạo Phật ở Việt Nam.
Thứ hai, tinh thần đại đoàn kết của Trần Nhân Tông có ý nghĩa sâu sắc trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Kế thừa tư tưởng đại đoàn kết dân tộc trong lịch sử nhất là trong thời đại Nhà Trần, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: "Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn" [2, tr.256] hay "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công" [3, tr.119]. Bài học kinh nghiệm về sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân vẫn còn nguyên giá trị lịch sử bởi hiện nay, tình hình thế giới và trong nước rất phức tạp vì vậy đoàn kết trở thành sức mạnh nội sinh của dân tộc, tạo sức mạnh tổng hợp từ bên trong và huy động được nguồn lực từ bên ngoài… góp phần đưa nước ta nhanh chóng vượt qua thách thức, tranh thủ những vận hội mới để Việt Nam vững bước trên con đường hội nhập, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ ba, tinh thần "phật tại tâm" của Trần Nhân Tông là bài học đối với mỗi con người, với dân tộc và nhân loại hiện nay.
Ngày nay, khi nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cho thấy xã hội loài người đang đứng trước vô số những mâu thuẫn, khác biệt và những hiềm khích, hận thù, những xung đột tiềm ẩn, những nguy cơ đẩy thế giới đến sự hủy diệt... thì bài học từ việc Trần Nhân Tông rời ngôi vua để tu hành, từ bỏ lòng tham vật chất, chức danh, sống cống hiến, hòa mình với thiên nhiên vẫn còn nguyên giá trị. Tiếp nối truyền thống nhập thế, cứu khổ cứu nạn, Phật giáo Việt Nam hôm nay hướng tới những hành động hiện thực, góp phần vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo, giáo dục đạo đức, lối sống lành mạnh, giải thoát tâm linh cho con người. Phật giáo không ngừng dấn thân vì một xã hội Việt Nam ngày càng tốt đẹp, giàu mạnh, văn minh hơn.
3. KẾT LUẬN
Như vậy qua bài viết này, tác giả đã làm rõ ba đóng góp lớn của Trần Nhân Tông trong việc truyền bá phật pháp, đạo lý nhằm khẳng định độc lập dân tộc, cứu nước, cứu dân, xây dựng một nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, một xã hội đạo đức lành mạnh, quốc gia cường thịnh. Nền Phật học do Ngài khởi xướng tuy có tiếp nhận những ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa và Ấn Độ nhưng vẫn giữ được nét riêng, có tinh thần độc lập, uy tín; tinh thần của nó là tinh thần quốc gia Đại Việt, là xương sống của nền văn hóa Việt Nam độc lập. Vì có căn bản vững chắc về Phật học, thấm nhuần giáo lý Từ, Bi, Hỷ, Xả nên lúc còn ngự trị trên Ngai Vàng, Ngài đã làm nên những trang sử hào hùng vẻ vang, một "Hào khí Đông A" cho dân tộc. Ngài là nhà tư tưởng và là một nhà chính trị kiệt xuất đã sử dụng được tiềm năng của Phật giáo để phục vụ cho chính trị, để liên kết nhân tâm trong việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, làm cho Phật giáo Việt Nam có những nét độc đáo riêng, khiến cho nó chỉ có thể là một giáo hội Việt Nam, phục vụ người Việt, duy trì và bồi đắp căn tính Việt.
ThS Hoàng Thị Duyên
Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Công nghiệp TP Hồ Chí Minh
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- 1. Nguyễn Hùng Hậu (1997), Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
- 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3.
- 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13.
- 4. Nguyễn Lang (1979), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập I, Nxb. Văn Học - Hà Nội.
- 5. Lê Mạnh Thát (1999), toàn tập Trần Nhân Tông, Nxb. TP. Hồ Chí Minh.
- 6. Lê Mạnh Thát (2006), Trần Nhân Tông toàn tập, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh.
- 7. Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Đại việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
- 8. Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam (1988), Thơ Văn Lý – Trần, tập II, quyển thượng, Nxb. Khoa học xã hội Hà Nội.
- 9. Thích Đức Nhuận, Phật học tinh hoa-Một tổng hợp đạo lý, tr.495
- 10. Thích Phước Sơn dịch và chú giải (1995), Tam Tổ thực lục, Viện NCPH, Hà Nội.