
Ngay từ Tuyên ngôn Độc lập 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn "những lẽ phải không ai chối cãi được" về quyền con người và quyền dân tộc từ các bản Tuyên ngôn của Mỹ và Pháp, khẳng định: "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do"[1]. Điều đó cho thấy độc lập dân tộc mà Cách mạng Tháng Tám giành được chính là để thực hiện những giá trị nhân văn phổ quát: quyền được sống tự do, hạnh phúc của con người Việt Nam và các dân tộc bị áp bức. Từ khát vọng độc lập cháy bỏng năm 1945, dân tộc Việt Nam đã tiếp tục trải qua các chặng đường lịch sử gian khổ để bảo vệ và củng cố nền độc lập đó. Đồng thời không ngừng nuôi dưỡng khát vọng phát triển phồn vinh, hạnh phúc. Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra mục tiêu xây dựng đất nước "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", một quốc gia phồn vinh, hạnh phúc cho mọi người dân. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng lần đầu tiên xác định nhiệm vụ "khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc"[2], phấn đấu đến năm 2045 đưa Việt Nam trở thành nước phát triển có thu nhập cao, Nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Như vậy, lý tưởng nhân văn của Cách mạng Tháng Tám 1945 đang tiếp tục tỏa sáng trong định hướng phát triển đất nước hiện nay.
1. Giá trị nhân văn của Cách mạng Tháng Tám 1945 - giải phóng con người và khát vọng độc lập
Ngày 19/8/1945, hàng chục nghìn người dân Thủ đô mít tinh tại Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội, chào mừng thắng lợi Cách mạng Tháng Tám. Thắng lợi này mang lại nguồn sống mới cho một dân tộc đang quằn quại dưới xiềng xích thực dân phong kiến, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ vận mệnh đất nước. Cách mạng Tháng Tám 1945, trước hết là cuộc cách mạng giải phóng con người. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hàng triệu người Việt Nam từ thân phận thuộc địa đã "đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta", giành lại quyền được làm người tự do. Đây là cuộc cách mạng của nhân dân, do nhân dân tiến hành và vì lợi ích của nhân dân, với mục đích cuối cùng là "tự do, hạnh phúc cho nhân dân, là giải phóng con người".
Thắng lợi của Cách mạng đã mang lại quyền làm người cho mỗi người dân Việt Nam, điều mà suốt hàng thế kỷ dưới ách thực dân, phong kiến họ không hề có. Lần đầu tiên trong lịch sử, người dân Việt Nam ngẩng cao đầu với tư cách người làm chủ, có quyền quyết định vận mệnh dân tộc mình. Giá trị nhân văn cốt lõi của Cách mạng Tháng Tám thể hiện tập trung ở khát vọng độc lập, tự do. Đó là khát vọng cháy bỏng được hun đúc xuyên suốt lịch sử trong tâm hồn dân tộc Việt. Hồ Chí Minh từng khẳng định: "Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập"[3]. Tư tưởng lớn đó đã trở thành mục tiêu chiến đấu của cả dân tộc. Độc lập, tự do không chỉ là mục tiêu chính trị mà còn là giá trị nhân văn thiêng liêng, bởi nó đem lại nhân phẩm và quyền sống cho con người. Trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố trước quốc dân và thế giới: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập"[4]. Lời tuyên bố ấy khẳng định quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam được sống như một quốc gia độc lập, đồng thời hàm nghĩa rằng từ nay người dân Việt Nam có quyền tự quyết cuộc sống của mình, không còn thân phận nô lệ. Đó là thắng lợi vĩ đại về nhân quyền dân tộc, đưa người dân từ địa vị "ngựa, trâu" dưới chế độ thực dân phong kiến trở thành công dân của một nước độc lập, tự do. Không những giành lại quyền dân tộc, Cách mạng Tháng Tám còn thiết lập một chế độ mới vì quyền lợi của nhân dân. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đã xác lập ở Việt Nam một nền dân chủ đầu tiên, nền dân chủ nhân dân, mở ra xã hội mới tốt đẹp hơn cho người dân lao động. Cuộc Tổng tuyển cử tự do ngày 06/01/1946 sau đó, là lần đầu tiên người dân Việt Nam được thực sự cầm lá phiếu, để lập nên một chính phủ hợp hiến, hợp lòng dân, khẳng định quyền làm chủ thuộc về nhân dân. Đây chính là giá trị nhân văn sâu sắc: chính quyền cách mạng là của dân, do dân và vì dân, xóa bỏ mọi đặc quyền áp bức.
Cuộc cách mạng đã đem lại quyền dân chủ và dân quyền cho nhân dân Việt Nam. Ngay sau khi giành chính quyền, Hồ Chí Minh đã đặt ra mục tiêu nhân văn cao đẹp, và hết sức cụ thể: "Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì"[5]. Người cảnh báo rằng độc lập chỉ là điều kiện cần; điều kiện đủ là phải mang lại hạnh phúc, tự do thực sự cho nhân dân. Xuất phát từ tư tưởng đó, Chính phủ cách mạng đã khẩn trương thực hiện những nhiệm vụ cấp bách để cải thiện đời sống nhân dân, chống giặc đói, giặc dốt. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ"[6]. Vì vậy, Người đề ra những mục tiêu cụ thể, phải thực hiện ngay: "1- Làm cho dân có ăn. 2- Làm cho dân có mặc. 3- Làm cho dân có chỗ ở. 4- Làm cho dân có học hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là bốn điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức được cho tự do độc lập"[7] và thụ hưởng tự do độc lập một cách ý nghĩa nhất. Việc đề cao mục tiêu "cơm no, áo ấm, học hành" cho dân chính là biểu hiện sinh động của tư tưởng nhân văn trong Cách mạng Tháng Tám. Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, đã được lựa chọn làm tiêu ngữ của Nhà nước mới từ năm 1945 và vẫn tiếp tục cho đến ngày nay. Sáu chữ vàng này cô đọng những giá trị nhân văn cao quý nhất mà cách mạng đem lại: Độc lập cho Tổ quốc, Tự do cho nhân dân, và Hạnh phúc cho mỗi cuộc đời. Đây chính là mục tiêu, là lẽ sống của cách mạng Việt Nam suốt từ 1945 về sau. Cách mạng Tháng Tám thành công đã đặt nền móng vững chắc để nước Việt Nam hướng đến chân lý xây dựng một xã hội vì con người, do con người làm chủ và mang lại hạnh phúc cho con người.
2. Giá trị nhân văn của Cách mạng Tháng Tám 1945 - từ khát vọng độc lập đến khát vọng phát triển phồn vinh, hạnh phúc
Tinh thần độc lập, tự do tiếp nối qua các giai đoạn lịch sử
Khát vọng độc lập dân tộc được khơi dậy mạnh mẽ từ Cách mạng Tháng Tám 1945 đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Ngay sau ngày 02/9/1945, nền độc lập non trẻ lập tức phải đối mặt với thử thách "sinh tử" khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược. Toàn dân tộc một lần nữa đứng lên với tinh thần "thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước", hưởng ứng Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946) của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ"[8]. Kháng chiến 09 năm gian khổ đã kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu". Thắng lợi này tiếp tục khẳng định chân lý: Không có gì quý hơn độc lập, tự do, và cũng chính nhờ khát vọng độc lập ấy mà một dân tộc nhỏ bé đã đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ, giành lại quyền tự do cho một nửa đất nước. Tuy nhiên, độc lập chưa trọn vẹn khi miền Nam Việt Nam còn dưới ách thực dân mới. Khát vọng độc lập, thống nhất Tổ quốc lại thôi thúc toàn dân bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đầy gian lao. Với quyết tâm "Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà"[9], quân dân cả nước đã đồng lòng chiến đấu suốt 21 năm trời. Khẩu hiệu "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" trở thành phương châm hành động của mỗi người Việt Nam yêu nước. Chính tinh thần yêu nước quật cường đó đã tạo nên sức mạnh "triệu người như một", đưa đến đại thắng Mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu non sông về một mối.
Như vậy, từ sau năm 1945 đến năm 1975, có thể nói khát vọng độc lập, tự do luôn là ngọn đuốc soi đường cho dân tộc ta vượt qua mọi thử thách, hoàn thành trọn vẹn sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Đây chính là sự tiếp nối và phát huy cao độ giá trị nhân văn của Cách mạng Tháng Tám: độc lập dân tộc gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân trong suốt các cuộc trường chinh giữ nước. Trong suốt những năm tháng chiến tranh, dù hoàn cảnh vô cùng gian khổ, Đảng và Nhà nước ta vẫn kiên trì mục tiêu cuối cùng là hạnh phúc của nhân dân. Giữa lúc bom đạn ác liệt, miền Bắc vẫn nỗ lực xây dựng chế độ mới, phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục. Miền Nam dưới chính quyền Cách mạng lâm thời (sau 1969) cũng thực hiện các chính sách "người cày có ruộng", thành lập chính quyền cách mạng của dân. Điều đó thể hiện rõ quan điểm: độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tức gắn liền với việc giải phóng con người về mọi mặt. Thắng lợi năm 1975 khép lại hành trình 30 năm chiến đấu vì độc lập, đồng thời mở ra điều kiện lịch sử để cả nước tập trung cho khát vọng mới: xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, phát triển phồn vinh.
Khát vọng phát triển phồn vinh, hạnh phúc thời kỳ đổi mới
Sau khi giành được độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, tư tưởng chỉ đạo của Đảng ta là đưa đất nước tiến lên phát triển phồn vinh để người dân được ấm no, hạnh phúc thực sự. Tuy nhiên, đất nước lại phải trải qua chiến tranh biên giới phía Bắc và phía Tây Nam. Do đó, năm 1986 chúng ta mới tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong việc thực hiện khát vọng phát triển. Kế thừa tinh thần Cách mạng Tháng Tám, Đảng xác định đổi mới là nhằm tiếp tục những giá trị lịch sử và bài học của cuộc cách mạng 1945, trong đó trọng tâm là phát huy dân chủ, khơi dậy tiềm năng con người vì sự phồn vinh của dân tộc. Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu phát triển to lớn có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề để hiện thực hóa khát vọng phồn vinh, hạnh phúc. Về kinh tế, tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ đổi mới đạt khoảng 7%/năm, thuộc nhóm cao trên thế giới. Quy mô GDP tăng gấp hàng chục lần so với trước đổi mới, năm 2023 đạt trên 430 tỷ USD. Việt Nam từ một nước nghèo, kém phát triển đã vươn lên trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 ở Đông Nam Á và vào nhóm quốc gia thu nhập trung bình. Thu nhập bình quân đầu người tăng lên hơn 4300 USD (năm 2023). Đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh còn 1,93% (tháng 9 năm 2024). Tuổi thọ trung bình tăng từ 65,5 tuổi (năm 1993) lên 74,5 tuổi (năm 2023). Chỉ số Phát triển Con người (HDI) của Việt Nam năm 2023 đạt 0,766, thuộc nhóm phát triển cao trên thế giới. Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam năm 2023 xếp thứ 65/137 quốc gia. Những thành tựu này minh chứng rằng khát vọng xây dựng một đất nước giàu mạnh, nhân dân được hạnh phúc đang dần trở thành hiện thực. Song song với tăng trưởng kinh tế, Đảng và Nhà nước đặc biệt nhấn mạnh phát triển vì con người, lấy con người làm trung tâm. Chính sách an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc y tế, giáo dục được đẩy mạnh, đảm bảo mọi người dân đều được thụ hưởng thành quả phát triển. Văn kiện Đại hội XIII tiếp tục khẳng định phát triển đất nước phải "tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, nâng cao cuộc sống của nhân dân; bảo đảm công bằng, bình đẳng… mọi người dân đều được thụ hưởng thành quả phát triển"[10]. Như vậy, mục tiêu "hạnh phúc của nhân dân" luôn được đặt vào vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển. Đây chính là sự kế thừa và phát huy giá trị nhân văn của Cách mạng Tháng Tám trong bối cảnh mới. Mọi thành quả kinh tế - xã hội đều hướng đến phục vụ con người, vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho toàn dân. Điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay là Đảng ta đã nâng tầm khát vọng phát triển thành một nội dung trọng yếu của đường lối. Đại hội XIII xác định: "khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam để xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc"[11]. Lần đầu tiên, "khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc" được đưa vào chủ đề Đại hội và các văn kiện quan trọng, thể hiện quyết tâm chiến lược của Đảng trong giai đoạn mới. Mục tiêu được đề ra rõ ràng: đến năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm nước nhà độc lập, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao, sánh vai cùng các cường quốc. Để đạt mục tiêu đó, Đại hội XIII nhấn mạnh cần tiếp tục phát huy những động lực tinh thần từng làm nên thắng lợi 1945, đó là lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, kết hợp với đổi mới sáng tạo trong thời đại mới. Rõ ràng, khát vọng độc lập năm 1945 nay đã chuyển hóa thành khát vọng vươn lên phát triển phồn vinh, hạnh phúc. Nếu như trước đây đấu tranh giành độc lập là để nhân dân thoát kiếp lầm than, thì ngày nay phát triển kinh tế - xã hội mạnh mẽ là để nhân dân ấm no, hạnh phúc và đất nước có vị thế xứng đáng trên trường quốc tế. Trong kỷ nguyên số, khát vọng phát triển phồn vinh, hạnh phúc của Việt Nam càng có thêm những nội dung mới. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số mang lại cơ hội lớn để Việt Nam bứt phá, thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển. Đảng và Chính phủ đã ban hành Chương trình Chuyển đổi số quốc gia, chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp 4.0, coi kinh tế số, xã hội số là động lực quan trọng cho tăng trưởng. Mục tiêu cuối cùng vẫn là nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Một nền kinh tế số phát triển sẽ tạo ra nhiều việc làm có thu nhập cao, một xã hội số sẽ giúp người dân tiếp cận thuận tiện các dịch vụ giáo dục, y tế, văn hóa... Tuy nhiên, kỷ nguyên số cũng đặt ra thách thức về nhân lực và khoảng cách số. Do đó, Việt Nam chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phổ cập kỹ năng số cho người dân, để không ai bị bỏ lại phía sau trong tiến trình phát triển. Đây chính là cách tiếp cận mang tính nhân văn. Sự tiến bộ công nghệ phải gắn liền với tiến bộ xã hội, đảm bảo mọi người dân đều được hưởng lợi và phát triển toàn diện. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) nhấn mạnh việc phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết... khơi dậy khát vọng cống hiến và xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Nghị quyết cũng nêu rõ mục tiêu lấy việc xây dựng Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc trở thành điểm tương đồng để cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân chung sức, đồng lòng vì tương lai dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Có thể thấy, toàn hệ thống chính trị đang vào cuộc với quyết tâm cao độ để biến khát vọng phát triển thành hiện thực, kế tục xứng đáng sự nghiệp mà Cách mạng Tháng Tám đã mở đường. Đồng thời, việc đổi mới tinh, gọn bộ máy hệ thống chính trị là cơ sở để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Khát vọng phát triển phồn vinh, hạnh phúc của Việt Nam ngày nay chính là sự tiếp nối khát vọng độc lập, tự do năm xưa trên tầm cao mới. Nếu như độc lập đem lại quyền làm chủ và phẩm giá cho dân tộc thì phát triển phồn vinh sẽ đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho từng người dân, đó đều là những mục tiêu nhân văn cao cả. Sự chuyển hóa từ khát vọng độc lập sang khát vọng phát triển diễn ra tự nhiên khi điều kiện lịch sử thay đổi, nhưng sợi dây xuyên suốt là lợi ích và hạnh phúc của con người Việt Nam. Ngày nay, đất nước đã độc lập vững chắc, thì hạnh phúc, phồn vinh cho nhân dân chính là thước đo ý nghĩa của độc lập ấy. Điều này cho thấy giá trị nhân văn cốt lõi của Cách mạng Tháng Tám, vì con người, vẫn đang và sẽ tiếp tục dẫn dắt sự nghiệp cách mạng nước ta trong thời kỳ mới.
Trải qua 80 năm, ánh sáng của Cách mạng Tháng Tám 1945 vẫn tỏa rạng trên con đường phát triển của dân tộc Việt Nam. Giá trị nhân văn của Cách mạng Tháng Tám 1945, mãi mãi là nền tảng tư tưởng và mục tiêu hành động của cách mạng Việt Nam. Từ khát vọng độc lập năm 1945 đến khát vọng phát triển phồn vinh, hạnh phúc hôm nay là một hành trình liên tục, gắn kết bởi lý tưởng lấy con người làm trung tâm, coi hạnh phúc, ấm no của nhân dân là mục đích tối thượng của mọi nỗ lực phấn đấu. Trong hành trình đó, Cách mạng Tháng Tám đóng vai trò như một nguồn mạch chảy truyền sức mạnh và niềm tin. Những bài học lớn về đại đoàn kết, về ý chí tự do độc lập, về lấy dân làm gốc... từ mùa Thu 1945 vẫn đang soi đường cho công cuộc đổi mới và hội nhập hiện nay. Đặc biệt, trong bối cảnh kỷ nguyên số, đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những biến chuyển chưa từng có, việc kế thừa và phát huy các giá trị nhân văn của Cách mạng Tháng Tám càng có ý nghĩa quan trọng. Đó là kiên định mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tiếp tục phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại để xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, mọi người dân đều có cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy. Nói cách khác, phải luôn đảm bảo rằng thành quả phát triển của đất nước được chia sẻ cho mọi tầng lớp nhân dân, không ngừng nâng cao chỉ số hạnh phúc và chất lượng cuộc sống của con người Việt Nam, như tinh thần Hồ Chí Minh đã khẳng định. "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc" không chỉ là tiêu ngữ trên quốc hiệu, là lý tưởng phát triển vĩnh hằng của dân tộc Việt Nam. Từ mùa thu Cách mạng năm 1945, đến chặng đường hướng tới năm 2045, lý tưởng đó vẫn nguyên giá trị và mang sức sống mới. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và sự đồng lòng của toàn dân tộc, khát vọng phát triển phồn vinh, hạnh phúc sẽ trở thành hiện thực trên đất nước ta, tỏa sáng hơn nữa giá trị nhân văn của Cách mạng Tháng Tám trong kỷ nguyên mới. Giá trị nhân văn ấy sẽ mãi là ngọn đuốc soi đường cho dân tộc Việt Nam trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội./.
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.1.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.14.
[3] T. Lan, Vừa đi đường vừa kể chuyện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tr. 26.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.3.
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.161.
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.175.
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.175.
[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.534.
[9] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.623.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.74.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.34.
Đại tá, PGS, TS Bùi Xuân Quỳnh
Phó Chủ nhiệm Khoa Triết học Mác - Lênin, Học viện Chính trị