Trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn giữ vị trí trọng yếu. Người nhiều lần khẳng định: Đảng là đạo đức, là văn minh; sức mạnh và uy tín của Đảng bắt nguồn từ phẩm chất trong sạch, từ sự gắn bó máu thịt với nhân dân. Hồ Chí Minh sớm cảnh báo những nguy cơ có thể làm suy yếu Đảng từ bên trong, trong đó có tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống - biểu hiện căn bản của "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" ngày nay. Ngay từ khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền, Người đã chỉ rõ những căn bệnh quan liêu, tham ô, chủ nghĩa cá nhân, bè phái… có thể làm suy yếu Đảng, dẫn đến "thoái bộ" và đánh mất lòng tin của nhân dân. Người khẳng định: "Một dân tộc, một đảng và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân"[1]. Hồ Chí Minh luôn coi việc chỉnh đốn Đảng là quy luật tồn tại của một đảng cách mạng cầm quyền, Người khẳng định: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch"[2]. Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định, nguyên nhân sâu xa dẫn đến tha hóa chính là chủ nghĩa cá nhân. Người coi đó là "kẻ thù nguy hiểm nhất trong mỗi con người", "một thứ giặc ở trong lòng". Theo Người, chủ nghĩa cá nhân làm nảy sinh tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, bè phái, lợi dụng chức vụ quyền hạn để mưu lợi cá nhân… Những căn bệnh này nếu không được kiên quyết đấu tranh sẽ biến cán bộ từ cách mạng thành phản cách mạng, từ "người đầy tớ của dân" thành "ông quan cách mạng". Do đó, phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" thực chất là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ chống lại chủ nghĩa cá nhân, để đề cao chủ nghĩa tập thể, đặt lợi ích Đảng, dân tộc và nhân dân lên trên lợi ích riêng.
Theo Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên là một "tế bào" của Đảng, nếu một bộ phận bị thoái hóa thì sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể. Người căn dặn: "Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết"[3]. cán bộ, đảng viên phải suốt đời phấn đấu cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, phải thường xuyên tự học, tự rèn, giữ gìn phẩm chất "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư". Tự giác rèn luyện chính là "lá chắn" vững chắc chống lại sự tha hóa từ bên trong.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" không chỉ mang giá trị lý luận sâu sắc mà còn có ý nghĩa thực tiễn cấp bách đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tác động phức tạp của tình hình thế giới, Đảng ta xác định công tác phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" là một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng. Bởi lẽ, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" là những biểu hiện suy thoái ngay từ trong nội bộ, nếu không kiên quyết phòng, chống sẽ làm suy yếu, thậm chí đe dọa đến sự tồn vong của Đảng và chế độ. Đại hội XIII khẳng định: "Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" còn diễn biến phức tạp"[4]. Đảng ta đặt nhiệm vụ "đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; ngăn chặn, đẩy lùi "tự diễn biến", "tự chuyển hóa""[5].
Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, hiện nay việc phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của Đảng được triển khai đồng bộ với nhiều giải pháp cụ thể như:
Một là, đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, thường xuyên tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng.
Giáo dục chính trị, tư tưởng luôn được Đảng ta xác định là giải pháp căn bản, lâu dài và có ý nghĩa quyết định trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn suy thoái và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Giáo dục chính trị, tư tưởng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, then chốt trong công tác xây dựng Đảng, giữ vai trò định hướng hành động, củng cố niềm tin và bản lĩnh cho cán bộ, đảng viên. Nhận thức rõ tầm quan trọng đó, Đảng ta luôn coi việc đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, gắn liền với học tập và quán triệt nghị quyết của Đảng là giải pháp cơ bản, lâu dài nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Phải thường xuyên tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng có tác dụng làm cho mọi chủ trương, đường lối của Đảng kịp thời đến với cán bộ, đảng viên, tạo sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động. Khi cán bộ, đảng viên hiểu rõ, thấm sâu tinh thần nghị quyết, họ sẽ biến ý chí, quyết tâm chính trị thành hành động cụ thể, góp phần đưa nghị quyết vào cuộc sống một cách thiết thực, hiệu quả. Đồng thời, quá trình học tập, quán triệt còn là dịp để cán bộ, đảng viên trao đổi, thảo luận, nâng cao năng lực tư duy lý luận, năng lực tổng kết thực tiễn.
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và học tập nghị quyết còn góp phần quan trọng trong việc phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn chặn biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Khi mỗi cán bộ, đảng viên thường xuyên rèn luyện, tự soi, tự sửa theo các giá trị cách mạng, họ sẽ giữ được phẩm chất trong sáng, tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng, trước nhân dân.
Hai là, xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực, hoàn thiện pháp luật, siết chặt kỷ luật, kỷ cương; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với phương châm "không có vùng cấm, không có ngoại lệ"
Quyền lực luôn gắn với trách nhiệm, nếu không được kiểm soát chặt chẽ sẽ dễ dẫn đến tha hóa, lạm quyền, lợi ích nhóm và tham nhũng. Nhận thức rõ điều này, Đảng ta xác định xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực là nhiệm vụ trọng tâm trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhằm ngăn chặn từ gốc những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên. Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, quy định của Đảng và Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Pháp luật phải chặt chẽ, đồng bộ, rõ ràng, không để xảy ra "khoảng trống, kẽ hở" tạo điều kiện cho lợi dụng. Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản quan trọng như Quy định 205-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Kết luận 21-KL/TW khóa XIII, qua đó thiết lập cơ chế kiểm soát ngày càng minh bạch, cụ thể.
Phải thường xuyên siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy nhà nước, việc xử lý vi phạm cần thực hiện nghiêm minh, kịp thời, bất kể người đó là ai, đúng với phương châm "không có vùng cấm, không có ngoại lệ". Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực phải được tiến hành đồng bộ, thường xuyên, gắn liền với xây dựng văn hóa liêm chính trong cán bộ, đảng viên. Không chỉ xử lý hậu quả mà quan trọng hơn là phòng ngừa, răn đe, tạo cơ chế giám sát chặt chẽ từ tổ chức Đảng, cơ quan chức năng đến nhân dân và báo chí.
Ba là, nêu cao tự phê bình và phê bình, gắn với công tác kiểm tra, giám sát, xử lý kỷ luật nghiêm minh.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình là "vũ khí sắc bén" giúp Đảng ta mạnh lên, giữ gìn sự trong sạch, vững mạnh. Người nhiều lần nhấn mạnh: "Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng, một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm, có dũng khí sửa chữa khuyết điểm, là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính"[6]. Đây không chỉ là nguyên tắc sinh hoạt Đảng mà còn là giải pháp cơ bản để ngăn chặn suy thoái, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".
Thực tiễn cho thấy, nơi nào tự phê bình và phê bình được tiến hành nghiêm túc, dân chủ, thẳng thắn thì nơi đó đoàn kết nội bộ được củng cố, cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, sửa chữa khuyết điểm, tổ chức đảng vững mạnh. Ngược lại, nếu buông lỏng hoặc làm hình thức thì khuyết điểm ngày càng tích tụ, tạo môi trường cho chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng, tiêu cực phát sinh.
Để tự phê bình và phê bình phát huy hiệu quả, Đảng ta xác định phải gắn chặt với công tác kiểm tra, giám sát và xử lý kỷ luật. Kiểm tra, giám sát là khâu quan trọng giúp phát hiện sớm sai phạm, uốn nắn kịp thời những lệch lạc trong tư tưởng, hành động của cán bộ, đảng viên. Việc xử lý kỷ luật nghiêm minh, kịp thời chính là biện pháp răn đe, giáo dục, củng cố kỷ luật, kỷ cương trong Đảng. Thời gian qua, hàng loạt vụ việc tham nhũng, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, thiếu trách nhiệm trong quản lý kinh tế, tài chính đã bị xử lý, từ đó củng cố niềm tin của nhân dân đối với quyết tâm chỉnh đốn Đảng. Tuy nhiên, để tránh tình trạng nể nang, né tránh, "dĩ hòa vi quý", cần xây dựng môi trường dân chủ, khuyến khích cán bộ, đảng viên nói thẳng, nói thật, góp ý với tinh thần xây dựng, cầu thị. Đồng thời, mỗi cán bộ, đảng viên phải có dũng khí tự soi, tự sửa, lấy danh dự làm trọng, coi trọng uy tín cá nhân gắn liền với uy tín của tổ chức.
Bốn là, phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, phải tiên phong trong liêm chính, chống chủ nghĩa cá nhân.
Trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn coi cán bộ là "cái gốc của mọi công việc". Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: "Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền"[7]. Vì vậy, nêu gương, đặc biệt là nêu gương của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu, có ý nghĩa quyết định trong việc củng cố niềm tin của nhân dân, ngăn chặn biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.
Mọi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, phải tiên phong trong giữ gìn liêm chính, công tâm, khách quan trong mọi quyết định. Liêm chính không chỉ là chuẩn mực đạo đức mà còn là nền tảng để xây dựng văn hóa chính trị trong sạch, chống lại chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm. Khi người lãnh đạo gương mẫu, sống trong sạch, thì lời nói và việc làm có sức thuyết phục, trở thành tấm gương để tập thể noi theo. Nêu gương phải gắn liền với tinh thần trách nhiệm, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Người đứng đầu không chỉ quản lý, điều hành mà còn phải là hạt nhân đoàn kết, tạo động lực cho tập thể vượt qua khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ. Thực tiễn cho thấy, ở đâu cán bộ lãnh đạo gương mẫu, quyết liệt chống tiêu cực, ở đó bộ máy trong sạch, đoàn kết, hiệu quả. Đảng ta đã cụ thể hóa quan điểm này bằng nhiều quy định, đặc biệt là Quy định số 08-QĐi/TW (2018) về trách nhiệm nêu gương. Theo đó, cán bộ cấp cao phải gương mẫu trước, nghiêm khắc với chính mình và kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân. Đây là cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng để phát huy vai trò nêu gương.
Năm là, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; chủ động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng.
Đấu tranh tư tưởng là một mặt trận đặc biệt quan trọng, góp phần trực tiếp vào việc bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và ngăn chặn nguy cơ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: "Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động"[8]. Ngày nay, khi các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hòa bình", xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thì đấu tranh tư tưởng càng trở nên cấp bách.
Trước hết, cần tổ chức phản bác kịp thời, có cơ sở khoa học và tính thuyết phục cao đối với các quan điểm sai trái, thù địch. Đảng ta đã thành lập Ban Chỉ đạo 35 các cấp, huy động đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học, báo chí, truyền thông để tham gia đấu tranh trực diện, vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực phản động, đồng thời lan tỏa những luận cứ đúng đắn, khẳng định tính tất yếu, ưu việt của con đường xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, trong bối cảnh bùng nổ thông tin, mạng xã hội trở thành môi trường mà các thế lực thù địch triệt để lợi dụng, việc chủ động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng là yêu cầu cấp thiết. Cần phát triển lực lượng đấu tranh chuyên nghiệp, đồng thời phát huy vai trò của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong việc lan tỏa thông tin tích cực, "lấy cái đẹp dẹp cái xấu". Bên cạnh phản bác, phải chú trọng xây dựng, truyền thông những giá trị tích cực, mô hình hay, tấm gương tốt để tăng "sức đề kháng" trong xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" thể hiện tầm nhìn xa và sự sáng suốt của Người đối với vận mệnh của Đảng và dân tộc. Người đã chỉ ra bản chất của vấn đề là do chủ nghĩa cá nhân, và biện pháp hữu hiệu nhất là thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đề cao tự phê bình và phê bình, rèn luyện đạo đức cách mạng. Đảng ta ngày nay đã vận dụng sáng tạo tư tưởng ấy, thể hiện quyết tâm chính trị qua các nghị quyết, quy định và đặc biệt là qua thực tiễn đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Kết quả đạt được trong những năm qua đã củng cố niềm tin của nhân dân, nâng cao uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, đây là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, cần sự đồng lòng, quyết tâm của cả hệ thống chính trị và sự tự giác tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên.
Đại uý CN Phạm Tiến Hoàn
Phòng Hậu Cần – Kỹ Thuật, Học viện Chính trị - BQP
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021.
4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
5. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 672
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 622.
[3] Sách đã dẫn, tr.547.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.92.
[5] Sách đã dẫn, tr.194.
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 301.
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 284.
[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 279.