Giảng viên Tin học - Hạt nhân lan tỏa phong trào “Bình dân học vụ số” đến học viên Trường Sĩ quan Lục quân 1

Thứ năm, 23/10/2025 - 17:00

Trong kỷ nguyên số, việc nâng cao năng lực công dân số không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, mà phải lan tỏa từ trong từng đơn vị, từng tổ chức, từng cá nhân. Với các học viên quân đội - những người sau này là cán bộ, sĩ quan tương lai của Quân đội Nhân dân Việt Nam, việc trang bị kỹ năng số là cực kỳ quan trọng, nhằm đáp ứng yêu cầu huấn luyện, chỉ huy, quản lý và đổi mới công tác trong môi trường tác chiến, điều hành hiện đại.

Phong trào Bình dân học vụ số (BDHV số) là một cách thức lan tỏa kiến thức, kỹ năng số rộng khắp, không để ai bị bỏ lại phía sau. Trong môi trường quân đội nói chung, Trường Sĩ quan Lục quân 1 nói riêng, giảng viên tin học là lực lượng chủ chốt để "khơi nguồn" cho phong trào này đến từng học viên. Là người truyền cảm hứng từ ngay trên lớp học, cũng là người đồng hành, hỗ trợ, điều chỉnh phương pháp và quyết định nhất đến đến hiệu quả BDHV số trong nhà trường.

Giảng viên Tin học - Hạt nhân lan tỏa phong trào “Bình dân học vụ số” đến học viên Trường Sĩ quan Lục quân 1 
- Ảnh 1.

Bài viết này sẽ phân tích sâu vai trò của giảng viên trong việc khởi động và lan tỏa BDHV số đến học viên Trường Sĩ quan Lục quân 1, chỉ ra các thuận lợi, khó khăn, đồng thời đề xuất giải pháp để phát huy vai trò này một cách tối ưu.

Trường Sĩ quan Lục quân 1 - Đại học Trần Quốc Tuấn có nhiệm vụ đào tạo Sĩ quan Chỉ huy, tham mưu Lục quân cấp phân đội, trình độ đại học và sau đại học cho Quân đội nhân dân Việt Nam. Với đặc thù quân sự, học viên ngoài kiến thức chuyên môn còn phải trang bị năng lực kỹ thuật, năng lực điều hành tác chiến, ứng dụng công nghệ trong huấn luyện, xây dựng cấp đơn vị số, triển khai các hệ thống thông tin, quản lý dữ liệu, hệ thống chỉ huy tham mưu…

Trong tình hình vũ khí, thông tin phát triển nhanh, môi trường chiến tranh mạng, tác chiến không gian mạng, sự liên kết giữa kiến thức, kỹ năng số và nghiệp vụ quân sự ngày càng chặt chẽ. Nếu học viên không có kiến thức số cơ bản, sẽ dễ lộ "điểm yếu" trong việc ứng dụng công nghệ vào huấn luyện, chỉ huy, quản lý, đặc biệt khi phải tiếp cận các hệ thống số hóa, kiểm soát dữ liệu, khai thác thông tin trong thời chiến. Do đó, việc đưa BDHV số vào trong môi trường đào tạo quân sự là một yêu cầu tất yếu. Trường Sĩ quan Lục quân 1 cần thiết lập nền tảng học tập số cho học viên, đặc biệt với những học viên chưa quen công nghệ, để tất cả đều có khả năng sử dụng các ứng dụng quân sự số, Tham mưu - Chỉ huy số, khai thác dữ liệu, quản lý tài nguyên số… Và, trong quá trình ấy, giảng viên tin học chính là người mở cánh cửa đầu tiên cho mỗi học viên, là hạt nhân lan tỏa phong trào trong từng lớp, từng khóa học viên của Nhà trường.

1. Giảng viên tin học - Người khơi nguồn phong trào "Bình dân học vụ số" đến học viên

Trong quá trình chuyển số nói chung, thực hiện phong trào BDHV số ở Nhà trường nói riêng, giảng viên tin học chính là lực lượng tiên phong, nắm giữ vai trò trung tâm trong việc khơi nguồn, duy trì và lan tỏa phong trào BPDHV số cho đối tượng là học viên.

1. Người truyền cảm hứng học số từ nền tảng kỹ thuật

Giảng viên tin học không chỉ giảng dạy kiến thức khô khan về thuật toán hay phần mềm, mà cần trở thành người truyền cảm hứng, giúp học viên nhận thức rõ: "Tin học không chỉ là kỹ năng bổ trợ, mà là công cụ thiết yếu để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ quân sự".

Trong lớp học, giảng viên tin học luôn đưa ra các ví dụ thực tiễn từ quân đội hiện đại: chỉ huy qua bản đồ số, báo cáo tình huống qua nền tảng trực tuyến, thống kê quân số, hậu cần bằng phần mềm, xử lý thông tin tác chiến bằng các thuật toán lọc, phân tích dữ liệu thời gian thực. Khi học viên hiểu rõ "tại sao phải học" và "học để làm gì", việc học tin học sẽ không còn là gánh nặng, mà trở thành nhu cầu tự thân.

Bên cạnh đó, giảng viên tin học cũng cần đóng vai trò "khích lệ viên" – tạo dựng niềm tin cho những học viên yếu công nghệ, giúp họ vượt qua nỗi sợ ban đầu bằng những bài học đơn giản, dễ tiếp cận, tổ chức các hoạt động "mỗi ngày một kỹ năng nhỏ" để hình thành sự tự tin công nghệ từ nền tảng.

2. Người xây dựng chương trình sát với thực tiễn quân sự

Khác với giảng dạy tin học trong khối dân sự, giảng viên tin học trong môi trường quân đội phải thiết kế chương trình học đặc thù, mỗi nội dung đều phải gắn với chức trách, nhiệm vụ quân sự. Vì vậy, đòi hỏi, một chương trình đào tạo tin học hiệu quả không thể dừng lại ở Word, Excel hay PowerPoint, mà phải bao gồm các kỹ năng tác nghiệp như: Làm việc với hệ thống mạng nội bộ quân sự; Xử lý dữ liệu bảo mật; Cài đặt và sử dụng phần mềm mô phỏng tác chiến; Quản trị hệ thống thông tin nội bộ của đại đội, tiểu đoàn; Sử dụng công cụ số trong quản lý, chỉ huy và huấn luyện.

Ngoài ra, giảng viên tin học còn phải xây dựng lộ trình phân tầng theo năng lực đầu vào của học viên: từ những người chưa quen với máy tính đến những người có khả năng lập trình cơ bản. Mỗi lớp, mỗi khóa cần có tài liệu, giáo trình, bài tập tình huống phù hợp, tất cả đều hướng tới ứng dụng thực tiễn trong môi trường thao trường huấn luyện và tổ chức lực lượng.

3. Người hỗ trợ kỹ thuật và đồng hành trong suốt quá trình học

Một trong những khó khăn phổ biến của học viên khi tiếp cận kỹ năng số là rào cản kỹ thuật: lỗi kết nối, phần mềm không tương thích, thao tác sai, mất dữ liệu... Giảng viên tin học vì thế vừa là thầy dạy, vừa là "kỹ thuật viên đồng hành". Hộ là người có năng lực xử lý tốt sự cố, hỗ trợ trực tiếp hoặc từ xa, giúp học viên vượt qua những vướng mắc cụ thể.

Ở Trường Sĩ quan Lục quân 1, giảng viên tin học có thể đề xuất mô hình "phòng hỗ trợ kỹ thuật" với khung giờ cố định, nơi học viên đến để được hướng dẫn khắc phục lỗi phần mềm, cấu hình thiết bị, hoặc luyện tập lại các thao tác chưa thành thạo. Ngoài ra, việc xây dựng nhóm học tập online (qua hệ thống nội bộ hoặc ứng dụng được phép sử dụng trong quân đội) sẽ tạo môi trường học viên giúp nhau, giảng viên làm người điều phối, định hướng và can thiệp khi cần thiết. Chính sự gắn kết chặt chẽ này sẽ giúp duy trì động lực học tập, hạn chế tình trạng bỏ cuộc giữa chừng do quá tải kỹ thuật.

4. Người tiên phong đổi mới phương pháp giảng dạy, ứng dụng công nghệ trong đào tạo

Giảng viên tin học, hơn ai hết, chính là người đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ vào dạy học. Từ việc xây dựng video hướng dẫn, bài tập số hóa, lớp học trực tuyến trên nền tảng nội bộ đến sử dụng hệ thống đánh giá tự động – tất cả đều góp phần hiện đại hóa phương pháp giảng dạy, làm cho lớp học trở nên sinh động, trực quan và hiệu quả hơn.

Việc sử dụng công nghệ không chỉ nhằm tăng năng suất dạy học, mà còn làm mẫu cho học viên noi theo. Khi một sĩ quan tương lai thấy được hiệu quả thực tế của công nghệ trong việc xử lý công việc hằng ngày, họ sẽ chủ động học hỏi, sáng tạo thêm công cụ cho nhiệm vụ của mình.

Giảng viên tin học cũng cần đóng góp sáng kiến cải tiến, đề xuất mô hình dạy học mới (học qua dự án, bài tập mô phỏng, lớp học đảo ngược...) để phong trào học số trong nhà trường không dừng ở mức "dạy để biết", mà tiến tới "học để ứng dụng sâu".

5. Người góp phần xây dựng văn hóa học tập số trong môi trường quân đội

Văn hóa học tập số không hình thành một cách tự nhiên, đặc biệt trong môi trường quân sự vốn đề cao kỷ luật, tổ chức và truyền thống. Giảng viên tin học chính là tác nhân chuyển hóa tư duy, giúp học viên và cả đội ngũ giảng viên khác nhận ra rằng: số hóa không đối lập với kỷ luật, mà là công cụ để nâng cao hiệu quả tổ chức, chỉ huy và huấn luyện.

Bằng những hành động cụ thể: tổ chức hội thảo chuyên đề, chia sẻ kinh nghiệm, viết bài báo cáo mô hình, hoặc triển khai dự án thí điểm trong lớp học, giảng viên tin học có thể góp phần xây dựng một cộng đồng học tập số, nơi mọi thành viên trong trường cùng tham gia, cùng học hỏi, cùng đổi mới.

Để thực hiện hiệu quả phong trào BDHV số, Trường Sĩ quan Lục quân 1 bước đầu đã đầu tư cơ bản về hạ tầng công nghệ thông tin: hệ thống mạng nội bộ, phòng máy, trang thiết bị hiện đại, hệ thống kiểm soát truy cập chặt chẽ. Đây là nền tảng kỹ thuật quan trọng giúp tổ chức các lớp học số trong môi trường an toàn, bảo mật. Học viên nhà trường có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tinh thần tập thể vững chắc, luôn sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ, nếu được dẫn dắt đúng cách, BDHV số hoàn toàn có thể lan tỏa sâu rộng từ lớp đến khoa đến học viên. Bên cạnh đó, đội ngũ giảng viên tin học có trình độ chuyên môn vững, nhiều người có bằng sau đại học, am hiểu công nghệ và sư phạm số; là lực lượng nòng cốt để tổ chức đào tạo kỹ năng số bài bản, hiệu quả.

Tuy nhiên, triển khai BDHV số cũng đối diện không ít khó khăn. Năng lực số đầu vào của học viên không đồng đều, nhiều người còn bỡ ngỡ khi tiếp cận công nghệ. Trong khi đó, lịch huấn luyện quân sự dày đặc khiến việc bố trí thời gian học số gặp nhiều trở ngại. Mặt khác, môi trường quân đội yêu cầu bảo mật cao, hạn chế sử dụng nền tảng công nghệ dân sự, khiến giảng viên phải tự thiết lập hệ thống nội bộ, vừa giảng dạy vừa hỗ trợ kỹ thuật. Áp lực giữ vững động lực học cũng là thách thức lớn, đòi hỏi giảng viên liên tục đổi mới nội dung, lồng ghép thực tiễn, tạo sức hút dài hạn cho phong trào học tập số.

Trong quá trình thực hiện phong BDHV số bước đầu thuận lợi và đạt đuwọc kết quả đáng kích lệ. Tuy vậy, đội ngũ giảng viên tin học cũng đang đối mặt với những khó khăn như chênh lệch trình độ công nghệ, áp lực lịch huấn luyện, yêu cầu bảo mật cao, thiếu nhân lực kỹ thuật hỗ trợ… Để khắc phục và tạo chuyển biến mạnh mẽ, cần triển khai đồng bộ 5 nhóm giải pháp sau:

Một là, cần có chính sách và cơ chế hỗ trợ từ nhà trường và cấp ủy các cấp

Trước hết, nhà trường cần chính thức đưa phong trào BDHV số vào nội dung, chương trình đào tạo, không chỉ xem là hoạt động tự phát mà phải trở thành một phần bắt buộc trong hệ thống kỹ năng bổ trợ toàn khóa. Các bài tập kỹ năng số nên được tích hợp vào chương trình chính khóa, gắn với mục tiêu xây dựng "công dân số quân đội".

Ban Giám hiệu, khoa, bộ môn chuyên môn cần tạo cơ chế ưu tiên: phân bổ phòng máy hợp lý, mở rộng thời gian sử dụng phòng Lab ngoài giờ hành chính, cấp phát thiết bị cần thiết như ổ lưu trữ, phần mềm nội bộ, thiết bị bảo mật,... Đồng thời, có chính sách đãi ngộ giảng viên tham gia BDHV số như hỗ trợ phụ cấp, công nhận sáng kiến kỹ thuật số trong xét thi đua, khen thưởng thường xuyên các mô hình giảng dạy số hiệu quả.

Nhà trường cần phối hợp với các đơn vị chuyên ngành như trung tâm công nghệ thông tin quân đội, các khoa CNTT để xây dựng nền tảng lớp học số nội bộ (intranet), hệ thống quản lý học tập (LMS) đáp ứng yêu cầu bảo mật, ổn định và có thể nhân rộng lâu dài.

Hai là, nâng cao năng lực và động lực cho đội ngũ giảng viên

Giảng viên là lực lượng tiên phong của phong trào BDHV số. Cần tổ chức các lớp tập huấn chuyên sâu cho giảng viên về: thiết kế bài giảng số, sử dụng công cụ giảng dạy trực tuyến nội bộ, quản lý lớp học số, kỹ năng hướng dẫn kỹ thuật, xây dựng kho tài nguyên số...

Trong các đợt tập huấn năm học, nhà trường có thể tích hợp module đào tạo kỹ năng số cho giảng viên để bảo đảm tính hệ thống. Đồng thời, hình thành mạng lưới mentor - giảng viên số nội bộ: những người có kinh nghiệm và năng lực công nghệ cao sẽ hỗ trợ các giảng viên khác, chia sẻ bài giảng mẫu, hướng dẫn sửa lỗi kỹ thuật, phát triển giáo trình tương tác. Bên cạnh đó, khuyến khích giảng viên thử nghiệm sáng kiến dạy học mới, ứng dụng công nghệ và được hỗ trợ kinh phí, vật tư, truyền thông nội bộ nếu thành công.

Ba là, xây dựng môi trường học tập số thực chất và bền vững

Phong trào PDHV số chỉ bền vững khi có một môi trường công nghệ hỗ trợ đồng bộ. Cần đầu tư xây dựng hệ thống LMS nội bộ có thể hoạt động không cần kết nối Internet bên ngoài, đi kèm hệ thống tài liệu, video hướng dẫn, ngân hàng câu hỏi, bài tập mẫu, hướng dẫn kỹ thuật bảo mật, quy tắc sử dụng an toàn trong quân đội.

Phòng lab nên mở cửa linh hoạt ngoài giờ học chính khoá: sáng sớm, buổi tối, giờ trống để học viên thực hành, giảng viên có thể hỗ trợ kỹ thuật trực tiếp. Đặc biệt, cần thành lập điểm hỗ trợ kỹ thuật số (helpdesk nội bộ): nơi học viên có thể mang thiết bị đến để khắc phục lỗi, được tư vấn kỹ thuật, hướng dẫn cài đặt phần mềm nội bộ.

Bốn là, đổi mới phương pháp giảng dạy, gắn với thực tiễn xây dựng Quân đội trong giai đoạn mới

Giảng viên cần triển khai phương pháp dạy học linh hoạt, chia nhỏ lớp, nhóm để hỗ trợ cá nhân hóa, đặc biệt cho học viên yếu công nghệ. Những học viên có năng lực tốt có thể tham gia nhóm phụ đạo cho bạn cùng lớp, vừa củng cố kiến thức, vừa lan tỏa tinh thần học tập.

Các bài giảng số cần gắn với bối cảnh quân sự thực tế: mô phỏng tình huống huấn luyện, sử dụng phần mềm để thu thập và phân tích số liệu chiến thuật, quản lý tổ chức tiểu đội bằng bảng tính, xây dựng sơ đồ đội hình, trình bày báo cáo qua bản đồ số... Học để dùng ngay trong công việc thực tế sẽ giúp học viên thấy rõ giá trị, từ đó tăng động lực học.

Ngoài ra, nhà trường nên tổ chức các buổi lab - workshop kỹ năng số vào sáng thứ Bảy hoặc ngoại khóa, khuyến khích học viên trình bày sáng kiến, dự án nhỏ ứng dụng công nghệ vào huấn luyện, quản lý đơn vị.

Năm là, duy trì động lực và tạo sức lan tỏa

Phong trào PDHV số cần được duy trì bằng các hoạt động truyền thông nội bộ hiệu quả: công bố kết quả định kỳ, giới thiệu học viên tiêu biểu, lớp học số xuất sắc, mô hình công nghệ mới. Hệ thống bản tin số, màn hình kỹ thuật số trong sảnh trường có thể sử dụng để trình chiếu các hoạt động tiêu biểu.

Tổ chức ngày hội "Công dân số quân đội", tọa đàm, thi kỹ năng số, mời học viên trình bày mô hình thực tiễn sẽ giúp tạo không khí học tập sôi nổi. Giảng viên chính là người giữ vai trò then chốt trong truyền cảm hứng, không chỉ bằng lời nói, mà bằng chính hành động số hóa trong giảng dạy hằng ngày: giao bài online, hướng dẫn kỹ thuật, đánh giá qua hệ thống nội bộ.

Thành công của phong trào BDHV số không đến từ một giải pháp đơn lẻ mà đòi hỏi sự đồng bộ trong chính sách, con người, công nghệ và văn hóa học tập. Với sự chỉ đạo sát sao của Ban Giám hiệu, tinh thần đổi mới của đội ngũ giảng viên và sự kỷ luật vốn có của học viên, Trường Sĩ quan Lục quân 1 hoàn toàn có thể trở thành hình mẫu đi đầu trong xây dựng mô hình đào tạo sĩ quan thời đại số vững vàng về tư tưởng, tinh nhuệ về kỹ năng, sẵn sàng thích ứng với yêu cầu chiến trường hiện đại.

Trung tá, ThS Uông Thị Chung

Trường Sĩ quan Lục quân 1