Giữ vững ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay

Thứ ba, 03/12/2024 - 23:55

Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, bên cạnh những thuận lợi chúng ta phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức và sự chống phá quyết liệt của kẻ thù, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là ngọn cờ dẫn dắt dân tộc ta đi tới mục tiêu xây dựng Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”

Trong Cương lĩnh phát triển đất nước (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng khẳng định: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng CNXH, bảo vệ Tổ quốc vẫn là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ hữu cơ với nhau. Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau”. Kể từ giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta đã có được những thành tựu vô cùng lớn lao trong sự nghiệp giành và giữ vững nền độc lập dân tộc, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền CNXH luôn là mục tiêu chiến lược của toàn Đảng, toàn quân và toàn thể dân tộc ta trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Ngay nay đất nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, dưới sự lãnh đạo của Đảng chúng ta luôn kiên định và trung thành với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội để vượt qua những khó khăn, thách thức, sự chống phá của kẻ thù đó cũng là thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG

1. Giá trị của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam

Khi rời Tổ quốc tìm con đường giải phóng dân tộc trong thời đại mới, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[1]. Người lựa chọn đứng trên lập trường của giai cấp vô sản để tiến hành giải phóng dân tộc bằng một cuộc cách mạng vô sản và sau đó xây dựng CNXH ở Việt Nam. Cuộc cách mạng đó phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - chính đảng của giai cấp công nhân và của dân tộc; Phải thực hiện dân tộc cách mệnh để đánh đổ bọn đế quốc thực dân và bọn phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc và làm thế giới cách mệnh, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Hồ Chí Minh cũng từng khẳng định: “muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mác - Lênin.”[2] và “An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”[3]. Mùa xuân năm 1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH được khẳng định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng trở thành phương hướng chiến lược của cách mạng nước ta: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[4]; tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng, từng bước đưa đất nước tiến lên xây dựng CNXH. Hai giai đoạn này có mối quan hệ biện chứng với nhau giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc sẽ là mục tiêu đầu tiên của cách mạng, là cơ sở, tiền đề cho mục tiêu tiếp theo - chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Trong mục tiêu độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân tộc và dân chủ; độc lập phải gắn với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và hơn nữa độc lập dân tộc cũng phải gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm, hạnh phúc cho nhân dân. Vậy nên khi nêu lên mục tiêu giải phóng dân tộc, Người cũng đã định hướng đến mục tiêu CNXH. Khi đề cao mục tiêu độc lập dân tộc, Đảng ta không coi đó là mục tiêu cuối cùng của cách mạng, mà là tiền đề cho một cuộc cách mạng tiếp theo - cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân càng sâu sắc, triệt để thì càng tạo ra những tiền đề thuận lợi, sức mạnh to lớn cho cách mạng XHCN. Cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đã được Đảng ta khẳng định là con đường cách mạng vô sản, vì vậy bản thân cuộc cách mạng này ngay từ đầu đã mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Độc lập dân tộc vì vậy không những là tiền đề mà còn là nguồn sức mạnh to lớn cho cách mạng XHCN. Mục tiêu đó là đúng đắn và sáng tạo vì không chỉ đáp ứng được yêu cầu khách quan, cụ thể của cách mạng Việt Nam mà còn phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.

CNXH là xu thế tất yếu của thời đại và phù hợp với lợi ích của nhân dân Việt Nam. Vì vậy, cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải mang tính định hướng XHCN thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn và triệt để: “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.”[5]. CNXH ở Việt Nam trước hết là một chế độ dân chủ, do nhân dân làm chủ, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Chế độ dân chủ thể hiện trong tất cả mọi mặt của đời sống xã hội và được thể chế hóa bằng pháp luật, đây là điều kiện quan trọng nhất để đảm bảo nền độc lập dân tộc, tạo ra nền tảng ý thức xã hội bảo vệ chủ quyền dân tộc, kiên quyết chống lại mọi âm mưu thôn tính, đe doạ nền độc lập, tự do của dân tộc: “rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”[6]. Sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và CHXN vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”[7]. Dưới ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập hợp và phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc làm nên Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH đường Đảng ta tiếp tục phát triển, bổ sung phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần II của Đảng (1951) khẳng định, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam sẽ tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa và nước Việt Nam sẽ thành một nước XHCN. Dưới sự lãnh đạo của Đảng chúng ta giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946 - 1954), miền Bắc được giải phóng hoàn toàn từng bước khôi phục, cải tạo nền kinh tế, văn hóa, xã hội từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội; còn ở Miền Nam, đồng bào ta vẫn tiếp tục thực hiện cuộc đấu tranh chống sự xâm lược của đế quốc Mỹ để đi tới mục tiêu thống nhất nước nhà.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960) xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam: đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH; đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập và giàu mạnh. Trải qua 21 năm đấu tranh gian khổ, kết thúc bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, chúng ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước cùng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều đó khẳng định độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là quy luật phát triển tất yếu, làm nên thắng lợi của sự nghiệp cách mạng đó cũng là sự nhất quán của Hồ Chí Minh và Đảng ta trong việc lựa chọn con đường phát triển của cách mạng Việt Nam - phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của thời đại.

Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay

Trải qua gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH được nhân dân ta kiên định thực hiện, bất chấp sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch trong và ngoài nước; sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa luôn được đặt lên hàng đầu, thấm nhuần trong tư tưởng và hành động của toàn Đảng, toàn quân, và toàn dân ta trở thành bài học đầu tiên được Đảng ta khẳng định tại đại hội lần thứ VII (1991): “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt trong quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc”[8]. Tiếp đến, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) nhấn mạnh: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn. Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”[9]. Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) tiếp tục nhấn mạnh: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”[10]. Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ X (2006) của Đảng khẳng định nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn với 8 đặc trưng cơ bản, đồng thời nhấn mạnh bài học quan trọng số một đó là: Trong quá trình đổi mới, phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) đã rút ra 5 bài học cơ bản, đồng thời khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”[11]. Cương lĩnh nêu những nội dung cơ bản của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; bổ sung, phát triển những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng với 8 đặc trưng cơ bản, 8 phương hướng cơ bản và những mối quan hệ lớn cần phải nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều đó khẳng định chắc chắn rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc và là hai mặt không tách rời của con đường phát triển của đất nước ta. Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ XII (2016) tiếp tục khẳng định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.”[12]. Thống nhất với các quan điểm được khẳng định từ các Đại hội trước, Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (2021) xác định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”[13] và “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam”.

Trong bối cảnh thế giới mới, với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập sâu rộng, bài học “phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới”[14] tập trung giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, phản ánh quy luật đổi mới và phát triển ở Việt Nam như mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế càng phải được thấm nhuần, chủ động và kiên trì thực hiện. Trước những thuận lợi, thời cơ mới và những thách thức, khó khăn đan xen, bên cạnh những thành tựu lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, an ninh, quốc phòng chúng ta đang phải đối mặt với rất nhiều những khó khăn, thử thách như: những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, những quản lý yếu kém trong sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; tình trạng dao động, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận không nhỏ của lãnh đạo, cán bộ, đảng viên với các biểu hiện thấy rõ tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, sa vào chủ nghĩa cá nhân, tha hóa quyền lực trong Đảng và hệ thống chính trị chưa được ngăn chặn, đẩy lùi một cách đúng đắn và triệt để.

Bên cạnh đó, trên bình diện quốc tế những tác độc tiêu cực của bạo loạn lật đổ chính quyền, xung đột sắc tộc, xâm phạm chủ quyền quốc gia, nhất là vấn đề tranh chấp trên biển Đông, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên diễn ra rất phức tạp. Các thế lực phản động, chống phá chúng ta luôn đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, lợi dụng các kênh truyền thông kích động biểu tình, bạo loạn, lật đổ, chống phá quyết liệt công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta; phủ nhận những thành tựu mà chúng ta xây dựng và bảo vệ; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là sai lầm, tụt hậu. Tất cả những yếu tố chủ quan và khách quan đó đã và đang đặt ra yêu cầu vừa cấp thiết vừa kiên trì để bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước và kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Mặc dù thế giới ngày nay luôn có nhiều đổi thay, song Đảng ta và nhân dân ta luôn kiên định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam phồn vinh, thịnh vượng và hạnh phúc. Đó là điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, nhân lên nguồn sức mạnh tinh thần, thống nhất về ý chí, tư tưởng, hành động của toàn Đảng, toàn dân ta, đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về những thành tựu vẻ vang trong công cuộc đổi mới đã và đang trở thành hiện thực ở Việt Nam.

KẾT LUẬN

Trong gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Đời sống nhân dân ta cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, cố Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: “Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”. Đó chính là thành quả của quá trình Đảng luôn kiên định, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển chung của thời đại. Đảng ta luôn tuân thủ “bốn kiên định” là: Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Điều đó cũng có nghĩa là kiên định phải đi đôi với đổi mới nhưng là sự đổi mới có nguyên tắc, không nóng vội và tùy tiện. Phải nắm vững và xử lý tốt “bốn kiên định”, đặc biệt là kiên định một cách sáng tạo và sáng tạo một cách kiên định, theo phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh, vì con đường đi lên CNXH ở nước ta là lâu dài và chưa có tiền lệ, còn rất nhiều khó khăn, thách thức. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là mục tiêu cách mạng, phù hợp với nguyện vọng của quần chúng nhân dân, vì lợi ích của quần chúng nhân dân. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là chủ trương nhất quán, đúng đắn của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, mọi luận điệu xuyên tạc mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và CNXH, đòi xóa bỏ CNXH… đều đi ngược lại quyền lợi, lợi ích của nhân dân, dân tộc. Các luận điệu này cần phải bị vạch trần và đấu tranh, loại bỏ./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

[1] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.30.

[2] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.304.

[3] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.312.

[4] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.1.

[5],[6] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.563.

Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.401.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2007): Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 51, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.129-130

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.68.

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.83.

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.70.

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.16.

[13] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.109.

[14] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.17.

Th.s Nguyễn  Thị Xuân Quỳnh - Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Đà Lạt