
Ảnh minh họa. Nguồn ảnh: vieclamdaknong.vn
Từ khi Luật Việc làm có hiệu lực năm 2015, trong đó dành một chương riêng quy định về bảo hiểm thất nghiệp, đến nay, các cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là ngành Lao động – Thương binh và Xã hội, đã chú trọng đẩy mạnh công tác truyền thông chính sách BHTN qua nhiều hình thức: từ tuyên truyền cổ động, phát thanh – truyền hình, hội nghị đối thoại trực tiếp, đến các nền tảng số như báo điện tử, mạng xã hội, cổng thông tin dịch vụ công. Các chiến dịch truyền thông thường tập trung vào việc nâng cao nhận thức về quyền và nghĩa vụ khi tham gia BHTN, quy trình đăng ký hưởng chế độ, thủ tục hỗ trợ học nghề, kết nối việc làm, cũng như trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc đóng bảo hiểm đầy đủ cho người lao động.
Đáng chú ý, trong những năm gần đây, ngành đã chủ động đổi mới cách tiếp cận trong truyền thông chính sách. Thay vì đơn thuần “đưa thông tin”, các đơn vị đã chú trọng nhiều hơn đến đối thoại hai chiều, khảo sát mức độ hiểu biết và phản hồi của người dân. Các chương trình truyền hình trực tiếp giải đáp thắc mắc, các chuyên mục thường kỳ trên báo chí chính thống, hay những nội dung dạng infographic dễ hiểu trên mạng xã hội đã góp phần nâng cao hiệu quả lan tỏa chính sách đến đúng đối tượng thụ hưởng. Một số địa phương như TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đà Nẵng… đã tổ chức các mô hình truyền thông trực tiếp tại khu công nghiệp, nơi tập trung đông lao động phổ thông, hoặc phối hợp với tổ chức công đoàn cơ sở để đưa thông tin đến người lao động ngay tại nơi làm việc.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, vẫn còn không ít tồn tại cho thấy cần tiếp tục hoàn thiện công tác truyền thông chính sách BHTN. Thực tế tại một số tỉnh thành cho thấy, tỷ lệ người lao động hiểu đầy đủ về các quyền lợi của mình khi tham gia BHTN vẫn còn thấp. Không ít trường hợp khi mất việc không biết cách làm hồ sơ, hoặc bị từ chối hỗ trợ do thiếu thông tin, dẫn đến tâm lý hoài nghi về tính thiết thực của chính sách. Bên cạnh đó, tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa, nơi tiếp cận thông tin còn hạn chế, công tác truyền thông còn mang tính hình thức, chưa sát thực tiễn. Đối với một bộ phận doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, việc chưa hiểu rõ quy định dẫn đến tình trạng chậm nộp, trốn đóng BHTN, ảnh hưởng quyền lợi người lao động.
Một nguyên nhân quan trọng dẫn đến những hạn chế nêu trên chính là việc chưa có sự thống nhất và chuyên nghiệp hóa trong hoạt động truyền thông chính sách ở nhiều cấp. Không ít đơn vị vẫn xem truyền thông là nhiệm vụ phụ trợ, thiếu kinh phí, thiếu nhân lực chuyên trách và thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp. Mặt khác, nội dung tuyên truyền đôi khi còn khô khan, thiếu tính gợi mở, chưa gắn chặt với các tình huống cụ thể hoặc câu chuyện người thật – việc thật nên chưa tạo được sự lan tỏa cảm xúc và chuyển hóa hành vi tích cực từ người tiếp nhận.
Để khắc phục tình trạng này, cần thiết phải xác định lại vai trò chiến lược của truyền thông chính sách BHTN như một công cụ quản lý nhà nước hiện đại. Theo đó, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cùng các địa phương cần xây dựng kế hoạch truyền thông bài bản, có chiều sâu, phù hợp đặc thù từng nhóm đối tượng. Cần tăng cường đầu tư vào công nghệ số để tối ưu hóa việc tiếp cận thông tin, đặc biệt qua điện thoại di động và nền tảng mạng xã hội – nơi người lao động, nhất là thế hệ trẻ, sử dụng hàng ngày. Đồng thời, việc phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan bảo hiểm xã hội, trung tâm dịch vụ việc làm, công đoàn, chính quyền cơ sở và báo chí chính thống là yếu tố then chốt để bảo đảm hiệu quả đồng bộ, tránh trùng lặp hoặc phân mảnh thông tin.
Trong bối cảnh thị trường lao động đang đứng trước nhiều thách thức như chuyển đổi việc làm do tự động hóa, suy giảm lao động khu vực sản xuất, gia tăng mô hình làm việc phi truyền thống..., vai trò của BHTN càng trở nên quan trọng trong việc bảo vệ người lao động và hỗ trợ điều tiết cung – cầu lao động. Chính vì vậy, truyền thông về chính sách này không thể là hành động ngắn hạn, mà phải được tổ chức như một chiến lược lâu dài, thường xuyên, liên tục và thích ứng. Chỉ khi người dân hiểu rõ – tin tưởng – chủ động tham gia và thực thi đúng quy định, chính sách BHTN mới thực sự phát huy vai trò là “tấm lưới an sinh” hiệu quả của quốc gia.