
Ảnh minh họa
Mục tiêu đặt ra đến năm 2030 gồm: Tăng thu nhập bình quân của cư dân nông thôn tối thiểu gấp 2,5 lần so với năm 2020; Loại bỏ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều trong giai đoạn 2022-2025; 80% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó ít nhất 35% xã đạt nông thôn mới nâng cao và 10% đạt nông thôn mới hiện đại. Với tầm nhìn đến năm 2035, mục tiêu là 90% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, hộ nghèo đa chiều giảm xuống dưới 1%, hình thành mô hình nông thôn văn minh, nhân văn và bền vững.
Chương trình nhấn mạnh xây dựng quy hoạch tích hợp làm nền tảng, thể hiện rõ vai trò của nông thôn trong phát triển vùng. Việc phát triển hạ tầng kinh tế — xã hội được tiến hành đồng bộ và kết nối hiệu quả liên vùng, gắn liền các giải pháp sinh kế với khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu.
Trong lĩnh vực kinh tế nông thôn, chương trình thúc đẩy ứng dụng khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, hình thành nền sản xuất hiện đại, xanh và tuần hoàn. Nông nghiệp công nghệ cao, sản phẩm OCOP, du lịch nông thôn và các làng nghề truyền thống được ưu tiên phát triển. Bên cạnh đó là tăng cường liên kết chuỗi giá trị, hỗ trợ hợp tác xã, thương mại điện tử, nhằm tạo sinh kế cho người nghèo, phụ nữ và đồng bào dân tộc thiểu số.
Về lĩnh vực xã hội, chương trình hướng tới nâng cao chất lượng giáo dục – y tế tại cơ sở, đảm bảo tiếp cận dịch vụ cơ bản, tăng cường an sinh cho nhóm yếu thế như người cao tuổi, người khuyết tật. Môi trường sống được định hướng nhân văn và an toàn. Cạnh đó, chính quyền cơ sở được củng cố năng lực quản trị, triển khai chuyển đổi số trong cung cấp dịch vụ công.
Công tác quản lý chất thải, quy hoạch không gian, phát triển các mô hình làng kiểu mẫu và nghĩa trang văn minh cũng được chú trọng. Về giải pháp thực thi, chương trình đặt nặng việc hoàn thiện cơ chế, chính sách; tăng phân cấp, phân quyền cho địa phương; khuyến khích hợp tác công – tư; phát triển tín dụng phù hợp cho sản xuất nhỏ, OCOP, cung cấp nước sạch và vệ sinh.
Phương thức truyền thông cũng được đổi mới, theo hướng đa nền tảng, minh bạch hơn, cùng với việc tăng tính giám sát và xử lý vi phạm. Đồng thời, sự tham gia trực tiếp của cộng đồng, người dân và doanh nghiệp được khuyến khích trong mọi giai đoạn triển khai.
Đối với tiểu dự án "Giảm nghèo về thông tin", một trong những trọng điểm là hỗ trợ nhóm yếu thế sử dụng dịch vụ viễn thông và truy cập thông tin. Mục tiêu là đảm bảo các vùng kinh tế — xã hội đặc biệt khó khăn, xã đảo, huyện đảo đều có mạng điện thoại thông minh, mạng di động và hệ thống thông tin cơ sở. Đơn cử như tại Lai Châu, số thuê bao điện thoại thông minh đạt gần 320.000 – minh chứng cho việc thu hẹp khoảng cách thông tin giữa các vùng miền. Hay như ở tỉnh Bắc Kạn (cũ), năm 2023 địa phương đã lắp đặt các cụm loa truyền thanh ứng dụng công nghệ thông tin – viễn thông tại các thôn chưa có hoặc loa hỏng; duy trì các điểm cung cấp thông tin công cộng tại 20 xã đặc biệt khó khăn để bảo đảm người dân tiếp cận tin tức, dịch vụ bưu chính – công cộng. Hoặc tại Hà Giang (cũ), Tỉnh đã đầu tư đài truyền thanh internet cho 62 xã, xây dựng điểm dịch vụ thông tin công cộng và các cụm thông tin điện tử ở cửa khẩu quốc tế. Đồng thời, địa phương tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ thông tin, truyền thông cơ sở.
Theo ông Lê Văn Bình, Phó chánh Văn phòng quốc gia giảm nghèo quốc gia thì giai đoạn 2021-2025, ngân sách Trung ương phân bổ cho Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững là 44.607,6 tỷ đồng, ngân sách địa phương gần 2.883 tỷ đồng. Sau gần 5 năm thực hiện, dự kiến đến cuối năm 2025 sẽ giảm số hộ nghèo và hộ cận nghèo xuống còn 1.256.000 hộ, đạt 52,49% — vượt 2,49% so với chỉ tiêu giảm một nửa số hộ nghèo, cận nghèo mà Quốc hội, Chính phủ giao.
Đồng thời, đến cuối năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều đã giảm từ 5,2% đầu kỳ xuống còn 1,93%. Đây là kết quả vượt mục tiêu được giao bởi Quốc hội và Chính phủ; tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo giảm mạnh từ gần 45% xuống còn 24,86%. Trong cộng đồng đồng bào dân tộc thiểu số, tỷ lệ đó còn 12,55%, vượt mục tiêu giảm 3-5% mỗi năm. 19 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển, hải đảo đã thoát khỏi nghèo – chiếm 35%, vượt chỉ tiêu được giao là 30%.
Ngoài ra, có hơn 10.000 mô hình, dự án giảm nghèo được thực hiện, thu hút hơn 200.000 hộ tham gia. Trong số đó, có 6.200 mô hình ứng dụng công nghệ cao. Gần 125.000 lao động nghèo, cận nghèo hoặc hộ mới thoát nghèo được hỗ trợ kết nối việc làm — vượt so với mục tiêu 100.000 người. Về an sinh xã hội, đã xây mới hoặc sửa chữa 90.000 căn nhà cho hộ nghèo tại các huyện nghèo, góp phần vào phong trào "Cả nước chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát".