Kỷ niệm 203 năm Ngày sinh Các Mác (05/5/1818 -05/5/2021): Vận dụng sáng tạo tư tưởng của Các Mác về con người, giải phóng con người vào xây dựng và phát triển con người toàn diện theo quan điểm của Đảng

Thứ năm, 06/05/2021 - 10:22

TNV - Với phương pháp tiếp cận khoa học theo quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử để kiến giải thuyết phục bản chất xã hội của con người. Các Mác đã có những cống hiến to lớn, mang ý nghĩa bước ngoặt, có tính thời đại đối với sự phát triển của tư tưởng nhân loại, nhất là về con người và giải phóng con người. Vận dụng sáng tạo tư tưởng của Mác,Đại hội XIII của Đảng đã khái quát và đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể về xây dựng, phát triển con người Việt Nam toàn diện, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu phát triển bền vững kinh tế - xã hội đất nước trong tình hình mới.

Con người là một trong những vấn đề quan trọng nhất của thế giới, luôn được các nhà khoa học nghiên cứu sâu sắc với nhiều khía cạnh. Trước Mác, những nhà triết học cho rằng: con người là một bộ phận của giới tự nhiên, là một động vật xã hội, v.v.. nhưng đến Các Mác, ông đã nghiên cứu con người với tư cách là một thực thể tự nhiên - xã hội, tồn tại và phát triển trong sự gắn bó hữu cơ với giới tự nhiên và xã hội loài người; chịu sự tác động, nhưng không phải là sản phẩm thụ động của tự nhiên và các quan hệ xã hội mà là chủ thể giữ vai trò quyết định đối với sự vận động, phát triển của thế giới và của chính mình. Lý tưởng nhân văn xuyên suốt, nhất quán trong toàn bộ các công trình khoa học và hoạt động xã hội của Các Mác là tìm ra con đường giải phóng và phát triển con người.

1. Tư tưởng của Các Mác về con người, giải phóng con người

Con người là một trong những vấn đề quan trọng nhất của thế giới, luôn được các nhà khoa học nghiên cứu sâu sắc với nhiều chiều cạnh. Theo Các Mác, lao động quyết định của sự hình thành con người, đánh dấu sự chuyển biến từ động vật thành con người. Trong lao động, con người xây dựng nên thế giới văn hoá vật chất và tinh thần của mình và cũng từ trong lao động, con người đã hình thành - chất xã hội của con người, như ngôn ngữ, tư duy, giao tiếp, quan niệm, định hướng giá trị, thế giới quan… Bản chất con người không phải là “cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt” như người ta nghĩ, mà có tính lịch sử - cụ thể. Đó là sự kết hợp giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội và “cơ sở hiện thực” của con người là “tổng số những lực lượng sản xuất, những tư bản và những hình thức xã hội của sự giao tiếp mà mỗi cá nhân và mỗi thế hệ thấy hiện có”[1]. Tính hiện thực của con người - “những cá nhân con người sống thể hiện ở sự tồn tại khách quan trong hoạt động thực tiễn của nó: “Con người không phải là một sinh vật trừu tượng, ẩn náu đâu đó ở ngoài thế giới. Con người chính là thế giới con người, là nhà nước, là xã hội”[2] và vì vậy, “bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất của con người là tổng hoà của những mối quan hệ xã hội”[3]. Quan điểm của Các Mác là một bước ngoặt cách mạng trong quan niệm về con người, về bản chất con người và vị trí, vai trò của con người trong tiến trình phát triển của nhân loại. Đồng thời quan điểm của Các Mác cũng cho thấy, mọi hoạt động lao động sản xuất con người đều không ngoài mục đích sáng tạo ra toàn bộ nền văn hoá vật chất và tinh thần. Cũng với ý nghĩa đó, bằng các hoạt động cách mạng, con người đánh dấu các trang sử mới cho chính mình phù hợp với nhu cầu và mục đích của mình trong tiến trình phát triển.

Đồng thời, Các Mác còn khẳng định mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội. Xã hội có vai trò quan trọng đối với sự hình thành cá nhân và cá nhân cũng có vai trò không kém phần quan trọng đối với sự hình thành xã hội: “Bản thân xã hội sản xuất ra con người với tính cách là con người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế”[4]. Trình độ giải phóng xã hội luôn được thể hiện ra ở sự tự do của cá nhân con người, vì cá nhân được giải phóng sẽ tạo ra động lực cho giải phóng xã hội và đến lượt mình, giải phóng xã hội lại trở thành điều kiện thiết yếu cho sự giải phóng cá nhân. Con người tự giải phóng cho mình và qua đó, giải phóng xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội - đó chính là sự khẳng định vị thế và vai trò của con người trong tiến trình lịch sử.

Các Mác cho rằng, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là thước đo năng lực thực tiễn của con người và xã hội; là sự vận động chuyển giao lực lượng sản xuất giữa các thế hệ con người và nhờ sự chuyển giao ấy mà con người “hình thành nên mối liên hệ trong lịch sử loài người, hình thành lịch sử loài người” và “Lịch sử xã hội của con người luôn chỉ là lịch sử của sự phát triển cá nhân của những con người”[5]. Bởi, thông qua hoạt động thực tiễn, con người đã để lại những dấu ấn sáng tạo của bản thân mình vào giới tự nhiên, vào xã hội và qua đó, phát triển, hoàn thiện bản thân mình. Với khả năng và năng lực của mình, con người chính là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, tạo nên những nền văn minh trong lịch sử nhân loại.

Trong các nghiên cứu của mình, Các Mác khẳng định rằng: xã hội tư bản là một bước tiến trong lịch sử phát triển của nhân loại; là cơ sở cho sự phát triển của bản chất con người, là điều kiện cho sự giải phóng xã hội, giải phóng nhân loại. Song sở hữu tư nhân, nhất là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đã trở thành nguyên nhân và suy đến cùng, đó là nguyên nhân chủ yếu và cơ bản nhất gây ra những tai hoạ khủng khiếp cho con người, làm tha hoá con người. Theo ông, “con người đã hiểu khái niệm chế độ tư hữu, nhưng nó chưa làm rõ được cho mình bản chất của chế độ đó, vì thế, chừng nào mà con người còn chưa nhận thức được “bản chất tích cực của chế độ tư hữu và chưa hiểu được tính chất con người của nhu cầu” thì chừng đó, họ “còn bị chế độ tư hữu cầm tù và truyền nhiễm”[6]. Do vậy, việc xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu là để cứu lấy con người, giải phóng con người [7] và “muốn xoá bỏ tư tưởng về chế độ tư hữu, thì tư tưởng về chủ nghĩa cộng sản là hoàn toàn đủ rồi. Còn muốn xoá bỏ chế độ tư hữu trong hiện thực thực tế thì phải có hành động cộng sản chủ nghĩa hiện thực”[8] và lực lượng xã hội có sứ mệnh lịch sử thực hiện thành công sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng nhân loại ấy chính là giai cấp vô sản[9].

Mục tiêu cuối cùng của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giải phóng con người, giải phóng xã hội, vì thế có thể nói, chủ nghĩa xã hội mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ dừng lại ở ý thức, ở khẩu hiệu giải phóng con người, mà trong hiện thực, con người đã từng bước được giải phóng: con người đã từ “vương quốc của tất yếu” chuyển sang “vương quốc tự do”, “trong đó sự phát triển tự do của mỗi con người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”[10]. Sự tự do đem lại cho con người quyền được lao động, được phân phối công bằng của cải vật chất và tinh thần, được tham gia vào các công việc xã hội, được phát triển và vận dụng các năng lực của mình thực hiện những nhu cầu cơ bản. Trong chủ nghĩa xã hội, tự do cá nhân không chỉ biểu hiện trong các quyền cá nhân được hưởng, mà còn được biểu hiện trong nghĩa vụ và trách nhiệm, thể hiện sự phát triển xã hội và con người.

Quan niệm của Các Mác về phát triển xã hội lấy sự phát triển của con người làm thước đo cho sự phát triển càng được khẳng định khi loài người đang sống trong bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, đến các thách thức mag tính toàn cầu về biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và cả những thành tựu ngoạn mục của tiến bộ khoa học và công nghệ đang tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống của con người. Song dù phát triển ở các nước, các khu vực khác nhau, theo định hướng nào, thì mọi định hướng phát triển vẫn phải hướng tới giá trị nhân văn của nó, đó là hướng tới sự phát triển con người, phát triển con người toàn diện.

2. Quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển con người Việt Nam toàn diện

Con người và nhân tố con người luôn là vấn đề trung tâm của mọi chiến lược phát triển và là yếu tố cốt lõi trong sức mạnh của mỗi quốc gia nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Xuyên suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đất nước, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng triết học của Các Mác về con người và giải phóng con người vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm lý luận mácxít trong bối cảnh mới. Cụ thể, Hồ Chí Minh và Đảng ta trên cơ sở xác định giải phóng dân tộc là cơ sở để giải phóng xã hội, giải phóng con người, để lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mùa Thu năm 1945, sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ thành chủ nhân một nước độc lập.

Với tư tưởng giải phóng con người là để phát triển con người, trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đã khẳng định Độc lập - Tự do - Hạnh phúc là mục tiêu hàng đầu của đấu tranh cách mạng; là hệ giá trị vĩnh cửu cho sự phát triển của xã hội Việt Nam và trong triết lý hành động của mình, Người luôn coi độc lập là tiền đề, tự do là then chốt; hạnh phúc là đích đến. Người viết: “Mục đích của cách mạng là xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, tự do, giàu mạnh. Làm cho nhân dân được hưởng hạnh phúc và xây dựng một xã hội sung sướng, vẻ vang”[11]. Trên hành trình đó, 91 năm qua, mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đều quán triệt, đều hướng tới mục tiêu giải phóng con người, phát triển toàn diện con người Việt Nam; từ đó, chú trọng chăm lo cho con người, gắn phát triển con người với phát triển kinh tế, văn hóa; xây dựng và mở rộng dân chủ, nâng cao các giá trị làm người v.v..

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với khát vọng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, nhân dân ta đã kiên cường đấu tranh giành được những thắng lợi vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng (1991) đã khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội con người được giải phóng, nhân dân làm chủ đất nước, có nền kinh tế phát triển cao và nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện để phát triển cá nhân, công bằng xã hội và dân chủ được đảm bảo”[12], “con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”[13].

Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tuởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[14]; đến Đại hội X, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam v.v.. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam”[15].Đại hội XI của Đảng chỉ rõ, xây dựng “con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật”[16] và “Chú trọng xây dựng nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối sống, thể chất, lòng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật, nhất là trong thế hệ trẻ”[17].

Vấn đề phát triển con người toàn diện là một trong những nhiệm vụ trọng tâm được khẳng định tại Đại XII của Đảng: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc”[18]. Một trong nhữngnhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2016-2020 là xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đây là quan điểm mới, phù hợp với thực tiễn phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu, rộng. Đây cũng là một bước tiến quan trọng của Đảng khi không chỉ nhận thức đúng về yêu cầu tất yếu phải phát triển con người mà đã chuyển thành nhiệm vụ, thành hoạt động thực tiễn phải được thực hiện đồng bộ với các nhiệm vụ quan trọng khác trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, kế thừa các thành tựu lý luận và thực tiễn đạt được trong xây dựng và phát triển con người, Đại hội XIII của Đảng đã nêu tư tưởng chỉ đạo, nhiệm vụ, phương hướng chủ yếu về xây dựng con người Việt Nam trong điều kiện mới, nhất là phát triển nguồn lực con người trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cũng như bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, điều này được biểu hiện:

Thứ nhất, kiên định mục tiêuphát triển con người. Đảng ta chủ trương: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắcdân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”[19].Đồng thờikhẳng định: “Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu cầu mới của phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”[20].

Thứ hai, khẳng định vị trí, vai trò, tầm quan trọng của nguồn lực con người trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong điều kiện sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đại hội đã khẳng định động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Do vậy, phải: “Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa, con người Việt Nam; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”[21].

Thứ ba, chủ trương xây dựng và phát triển con người Việt Nam toàn diện. Đại hội nêu rõ: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc”[22]; thực hiện phương châm: “Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu)”[23].

Thứ tư,thực hiện đồng bộ các chính sách kinh tế, văn hoá - xã hội để con người có điều kiện phát triển toàn diện.Đảng ta chủ trương: “Có kế hoạch, cơ chế và giải pháp xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống dân tộc trong xây dựng con người, phát triển kinh tế - xã hội”[24]. Thực hiện: “Xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống vàgiá trị hiện đại”[25]. Đồng thời, Đảng nêu rõ cần: “Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt đẹp của người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam”[26].

Chúng ta thấy rằng, trên cơ sở kế thừa tư tưởng của Các Mác về giải phóng con người, những nội dung quan điểm mà Đại hội Đảng xác định, đặc biệt là Đại hộiXIII về con người và phát triển nguồn lực con người là hệ thống toàn diện và có tính cập nhật, đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân lực trong bối cảnh mới của xu thế toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, nhất là trước tác động ngày càng sâu, rộng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đảng ta khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời phải là những con người có tri thức và đạo đức. Vì vậy, vấn đề cốt lõi là phải thực hiện chiến lược giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, phát triển con người một cách toàn diện cả thể lực lẫn trí lực. Nhiệm vụ của giáo dục và đào tạo là đưa con người đạt đến những giá trị phù hợp với đặc điểm văn hoá và những yêu cầu mới đặt ra đối với con người Việt Nam để thực hiện quá trình đổi mới của nước ta cũng như xu thế phát triển kinh tế - xã hội trên thế giới.

Như vậy, cùng với yêu cầu về phát triển kinh tế, việc chăm lo cho con người, chú trọng phát triển con người toàn diện - nguồn nhân lực quan trọng của mỗi quốc gia, dân tộc là tất yếu và rất cần thiết. Tăng trưởng kinh tế, thực hiện tốt và có hiệu quả các chính sách xã hội như: Xóa đói, giảm nghèo, lao động, việc làm, phát triển hệ thống y tế… là điều kiện để con người được phát triển toàn diện. Khi con người được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển, thì sự phát triển của các lĩnh vực khác phải nhằm và chính là để tạo ra những tiền đề vật chất, tinh thần cho sự phát triển toàn diện của con người; và ở Việt Nam, vấn đề trọng yếu này luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, chỉ đạo và thực hiện. Nghiên cứu, nắm vững tư tưởng của Các Mác, đặc biệt là quan điểm Đại hội XIII của Đảng về chăm lo phát triển con người, coi con người là trung tâm, là động lực của cách mạng Việt Nam là sự kế thừa những nội dung cốt lõi nhất đã được khẳng định trong các văn kiện, nghị quyết của các nhiệm kỳ đại hội trước đây. Đồng thời, là bước phát triển mới về tư duy trên cơ sở thực tiễn 35 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới.Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm kết hợp chăm lo đời sống vật chất cho Nhân dân, gắn với việc kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, xây dựng một nền văn hóa mới, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa tạo điều kiện để con người Việt Nam phát triển toàn diện, nhất là trong bối cảnh sự tác động ngày càng sâu, rộng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu thế hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế tri thức hiện nay.

Tài liệu tham khảo

[1]. [2]. [3]. C. Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.3, tr. 55, tr. 569, tr. 11.

[4]. [6]. [7]. [8].  C. Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.42, tr. 169, tr.167, tr.173, tr.194.

[5]. C. Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.27, tr.658.

[9]. C. Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,t.19, tr.333.

[10]. C. Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.4, tr. 628.

[11]. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, t.8, tr.265.

[12].[13]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr. 8, tr. 9.

[14]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.114.

[15]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.106.

[16]. [17]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQGST, Hà Nội, tr.105,tr.126 - 128.

[18].Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, Hà Nội, tr.434.

[19]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,Nxb CTQGST, tập 1, tr. 115 - 116.

[20]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,Nxb CTQGST, tập 1, tr. 136.

[21]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,Nxb CTQGST, tập 1, tr. 34.

[22]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,Nxb CTQGST, tập 1, tr. 231.

[23]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,Nxb CTQGST, tập 1, tr. 233.

[24]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,Nxb CTQGST, tập 1, tr. 145.

[25]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,Nxb CTQGST, tập 1, tr. 143.

[26]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,Nxb CTQGST, tập 1, tr. 136-137.

Thiếu tá Nguyễn Quốc DuyKhoa MLN, TTHCM/ Học viện Lục quân