Lạm phát nửa đầu năm 2022 được kiểm soát tốt nhưng dư địa không còn nhiều

Thứ bảy, 16/07/2022 - 07:51

TNV - Đây là nhận định của TS Nguyễn Bích Lâm - nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê đưa ra trong buổi Hội thảo: "Lạm phát, lãi suất và chứng khoán" diễn ra ngày 15/7 tại Hà Nội. Hội thảo do Hiệp hội Tư vấn tài chính Việt Nam (VFCA) và Công ty cổ phần Chứng khoán Nhất Việt (VFS) tổ chức với sự tham gia của các chuyên gia, lãnh đạo doanh nghiệp và lãnh đạo bộ, ngành.

Ông Lê Long Giang - Chủ tịch VFCA cho rằng: Kinh tế thế giới có nhiều bất ổn, nhưng vấn đề nóng nhất hiện nay là lạm phát đang tăng kỷ lục khắp các nền kinh tế trên thế giới, vượt ngoài tầm kiểm soát và suy thoái kinh tế đang cận kề.

Lạm phát tại nhiều nước đã đạt mức kỷ lục trong tháng 5/2022, lạm phát của Mỹ tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước, cao nhất kể từ năm 1981; lạm phát của khu vực đồng Euro tăng 8,1%, gấp 4 lần lạm phát mục tiêu 2% của Ngân hàng Trung ương châu Âu. Tại châu Á, bình quân 5 tháng đầu năm nay, lạm phát của Thái Lan tăng 5,2%; Hàn Quốc tăng 4,3%; Indonesia tăng 2,8%; Malaysia tăng 2,4%; Nhật Bản và Trung Quốc cùng tăng 1,5%.

TS Nguyễn Bích Lâm - nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê cho biết: Hiện nay, lạm phát của kinh tế Việt Nam vẫn đang trong tầm kiểm soát. Mặc dù tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của tháng 6/2022 tăng 0,69% so với tháng trước, tăng 3,18% so với tháng 12/2021, đều là mức tăng cao nhất kể từ năm 2012 nhưng bình quân 6 tháng đầu năm 2022 tốc độ tăng CPI vẫn được kiểm soát ở mức 2,44%. So với các nước trong khu vực châu Á, CPI tháng 6/2022 của Việt Nam tăng 3,37% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức lạm phát 7,7% của Thái Lan, mức 6,1% của Philippines, mức 6,0% của Hàn Quốc, cao hơn mức lạm phát 2,8% của Malaysia, mức 2,5% của Nhật Bản và 2,5% của Trung Quốc. Giá các nhóm hàng hóa trong 6 tháng đầu năm của Việt Nam tăng, giảm đan xen do ảnh hưởng bởi giá thế giới, bởi nhu cầu tiêu dùng trong nước và đặc biệt bởi chính sách hỗ trợ, các giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ.

Phân tích về mối quan hệ giữa giá các nhóm hàng hóa, dịch vụ và lạm phát trong nước, TS Nguyễn Bích Lâm chia sẻ: chỉ số giá tiêu dùng được tính toán dựa trên giá các mặt hàng thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng phổ biến của người dân và cơ cấu chi tiêu của hộ gia đình tương ứng với các nhóm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng. Hiện nay, danh mục hàng hóa và dịch vụ đại diện tiêu dùng của Việt Nam gồm 752 mặt hàng thuộc 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính.

TS Nguyễn Bích Lâm dự báo, mặc dù lạm phát nửa đầu năm 2022 được kiểm soát tốt, nhưng dư địa không còn nhiều, bên cạnh đó áp lực lạm phát trong những tháng còn lại của năm 2022 và năm 2023 là rất lớn. Lạm phát chuỗi cung ứng là nhóm yếu tố tạo áp lực lớn nhất đến lạm phát của nền kinh tế trong thời gian tới do kinh tế nước ta có độ mở lớn, sản xuất phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu từ bên ngoài, tạo áp lực lên hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, qua đó tạo áp lực lên lạm phát. Đồng thời, tổng cầu tăng đột biến trong bối cảnh đứt gãy chuỗi cung ứng cũng là yếu tố gây áp lực lên lạm phát trong thời gian tới.

Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội với quy mô 350.000 tỷ đồng trong 2 năm 2022-2023, cùng với các gói hỗ trợ của năm 2021 đang thẩm thấu vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế sẽ làm cho tổng cầu tăng đột biến, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ tăng mạnh sau thời gian dài chịu ảnh hưởng của đại dịch là áp lực lớn lên lạm phát trong năm 2022 và 2023.

Theo TS Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), điểm tích cực của kinh tế Việt Nam, về phía cung, lĩnh vực nông nghiệp tăng trưởng ở mức bình thường, thấp hơn một chút so với năm ngoái. Công nghiệp tăng trưởng ở mức tốt. Lĩnh vực dịch vụ phục hồi rất tốt và đã trở về gần với trạng thái trước dịch COVID-19.

TS Cấn Văn Lực nhận định, các dự báo gần đây cho rằng tăng trưởng kinh tế ở mức 6%-7% là khả thi. "Chúng tôi cũng có các kịch bản. trong đó kịch bản cơ sở có mức tăng trưởng là 6,8%-7,1%. Nếu tình hình tốt hơn thì tăng trưởng kinh tế có thể cao hơn một chút, nhưng trong bối cảnh hiện nay, việc tốt hơn là khó.

Các rủi ro, thách thức chính trong năm 2022 là lạm phát, nợ công, thâm hụt ngân sách, nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ (vẫn trong tầm kiểm soát), giải ngân đầu tư công chậm, doanh nghiệp còn gặp khó, nhân sự khó khăn. "Về lạm phát tại Việt Nam, chúng tôi thấy có mấy điểm: Một là có độ trễ hơn so với quốc tế; hai là lạm phát cơ bản tăng thấp, 1,25%, cơ bản hiện nay do chi phí đẩy chứ không phải do cung tiền. Chúng tôi kiến nghị tín dụng năm nay có thể tăng mạnh hơn một chút, có thể là 15%. Nếu chúng ta chỉ kiên định 14% thì chương trình phục hồi kinh tế sẽ khó thực hiện hơn", TS Cấn Văn Lực khuyến nghị.

Có một số nguyên nhân khiến lạm phát Việt Nam thấp hơn so với thế giới: Một là giá xăng được hỗ trợ bình ổn tương đối nhanh, hai là bảo đảm nguồn cung hàng hóa, ba là một số mặt hàng được điều tiết tương đối mạnh (giá điện không tăng, viện phí không tăng dồn dập vào một thời điểm), bốn là NHNN điều hành linh hoạt công cụ chính sách (hút khoảng 135.000 tỷ đồng), năm là cung tiền vừa phải, vòng quay tiền chậm.

Về cơ hội đối với chứng khoán, TS Cấn Văn Lực cho rằng, việc kinh tế phục hồi thì chứng khoán sẽ tốt lên. Đặc biệt là việc chu kỳ T+2 được triển khai, giúp giao dịch được thực hiện nhanh hơn cùng với việc doanh nghiệp niêm yết phục hồi khá, tăng 20-24% là cơ hội đối với thị trường chứng khoán. Ông đưa ra lời khuyên, để có lợi nhuận, nên đầu tư dài hơi hơn. Thống kê mà vị chuyên gia này đưa ra cho thấy, giữa các kênh đầu tư như: Cổ phiếu, bất động sản, trái phiếu, tiền gửi, vàng và USD, đối với đầu tư cổ phiếu, nhà đầu tư đầu tư 5 năm thì lợi nhuận bình quân là 19,2%/năm; đầu tư 10 năm, lợi nhuận là 15,8%/năm, cao hơn lợi nhuận các kênh còn lại.

Hải Hà