Du lịch, dịch vụ phát triển mạnh, có nhiều điểm sáng, bước đầu khẳng định là ngành kinh tế mũi nhọn đột phá
Theo báo cáo trình Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 – 2030, bình quân giai đoạn 2021-2025 tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) của tỉnh ước đạt khoảng 6,92%/năm, mặc dù thấp hơn 0,41 điểm phần trăm so với giai đoạn 2016-2020, nhưng lại cao hơn 0,62 điểm phần trăm so với bình quân chung toàn quốc (6,2%/năm). Đặc biêt, GRDP bình quân đầu người tăng nhanh từ 55,1 triệu đồng năm 2020 lên khoảng 85 triệu đồng vào năm 2025. Quy mô kinh tế tỉnh Lào Cai tiếp tục tăng trưởng, hết năm 2025 ước đạt trên 142.599 tỷ đồng gấp 1,63 lần năm 2020. Thu nhập bình quân đầu người đạt 47 triệu đồng, tăng 17,3 triệu đồng so với năm 2020.
Đáng chú ý, chất lượng tăng trưởng có chuyển biến tích cực, được nâng lên một bước. Chuyển mạnh mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, từ mô hình kinh tế "thẳng" sang mô hình "kinh tế tuần hoàn"; cơ cấu lại sản xuất trong và ngoài ngành gắn với đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư. Tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm từ 19,0% năm 2020 xuống còn 16% năm 2025; tỷ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng tăng từ 34,9% năm 2020 lên 37,3% năm 2025; tỷ trọng khu vực dịch vụ tăng từ 38,3% năm 2020 lên 39,1% năm 2025.

Cửa khẩu quốc tế Lào Cai được định hướng áp dụng mô hình cửa khẩu thông minh – động lực thúc đẩy Lào Cai trở thành cực tăng trưởng, trung tâm kết nối giao thương kinh tế giữa Việt Nam và các nước ASEAN với vùng Tây Nam - Trung Quốc.

Lào Cai có diện tích chè lớn nhất nước và có đặc sản chè shan tuyết Suối Giàng – nơi hội tụ cả thảy 18 hương vị thiên nhiên đầu đẳng của núi rừng Tây Bắc
Trong đó, sản xuất công nghiệp chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng chế biến, chế tạo giảm tỷ trọng ngành khai thác (tỷ trọng công nghiệp chế biến tăng từ 73,34% lên 76,6%, công nghiệp khai thác giảm từ 7,38% xuống còn 5,5%). Tập trung phát triển công nghiệp chế biến sâu khoáng sản (đặc biệt công nghiệp luyện kim và hóa chất), công nghiệp chế biến nông lâm sản (chế biến sâu tinh dầu quế, dứa đóng hộp). Thúc đẩy đầu tư một số dự án công nghiệp lớn, nâng công suất và chế biến sâu các sản phẩm như: Phốt pho đỏ, axít điện tử, phân bón giàu lân, chế biến chất thải gyps, điện sản xuất, sản phẩm gỗ chế biến, sản phẩm đá CaCO3 bột, hạt,... Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 7,29%/năm. Đến hết năm 2025 giá trị sản xuất công nghiệp đạt trên 75.000 tỷ đồng, tăng 49,8% so với năm 2020.
Hoạt động đầu tư xây dựng và sản xuất kinh doanh trong các khu công nghiệp, cụm công nghiệp được quản lý và dần đi vào ổn định (07 khu công nghiệp đi vào hoạt động với tỷ lệ lấp đầy trên 77%, 21 cụm công nghiệp với tỷ lệ lấp đầy trên 60%). Các doanh nghiệp trong khu công nghiệp đã thực hiện tương đối tốt các quy định của Nhà nước; công tác quản lý môi trường, hạn chế tối đa ảnh hưởng.
Thị trường xuất khẩu được mở rộng tới 90 quốc gia và vùng lãnh thổ
Đặc biệt, từ 2021 đến nay, tỉnh đã xây dựng và hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh với quy mô lớn và chất lượng ngày càng nâng cao như: vùng sản xuất lúa hàng hoá tập trung 4.800 ha, vùng trồng dâu 1.255 ha, vùng cây ăn quả 5.000 ha, vùng chè gần 8.000 ha, vùng quế 144.200 ha…; nhiều sản phẩm được chế biến mang lại hiệu quả kinh tế cao, nhiều sản phẩm có giá trị xuất khẩu.
Chăn nuôi từng bước phát triển theo hướng hiện đại, mở rộng mô hình trang trại, cơ sở sản xuất tập trung theo chuỗi; năng suất, chất lượng và kiểm soát dịch bệnh đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, công tác tiêm phòng vắc xin phòng bệnh đạt trên 80% tổng đàn hàng năm. Phát triển thủy sản theo hướng mở rộng quy mô, đa dạng hóa hình thức nuôi trồng. Khuyến khích phát triển một số sản phẩm đặc thù, đặc sản có lợi thế như các nước lạnh ở Sa Pa, Bát Xát, Văn Bàn, Bắc Hà, Mù Cang Chải, Yên Bình, Lục Yên, Trấn Yên, Văn Yên, Trạm Tấu; ba ba gai ở Văn Bàn, Văn Chấn,… Quản lý, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản hồ Thác Bà và các hồ chứa lớn.
Chuyển đổi mạnh mẽ từ lâm nghiệp truyền thống sang phát triển kinh tế lâm nghiệp; hình thành vùng nguyên liệu gắn với hệ thống cơ sở chế biến, từng bước nâng cao hiệu quả kinh tế đồi rừng. Hết năm 2025, tỷ lệ che phủ rừng ước đạt 61,5%, tăng 1,8 điểm phần trăm so với năm 2020, thuộc nhóm 5 tỉnh cao nhất toàn quốc.

Vẻ đẹp mùa vàng non cao Mù Cang Chải.

Phiên chợ tình Sa Pa diễn ra tại Quảng trường Sa Pa, trước nhà thờ đá.
Nhờ vậy, đến hết tháng 6/2025 toàn tỉnh có 7/18 đơn vị cấp huyện (cũ) hoàn thành Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới, bằng 100% so với MTĐH; trước khi hợp nhất, hai tỉnh có 186 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 68,4% tổng số xã, sau hợp nhất có 37 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 41,8%. Chất lượng cuộc sống của người dân nông thôn tiếp tục được cải thiện; thu nhập cho người dân (trung bình đạt 67 triệu đồng/người/năm); tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh đạt 97,5% đạt MTĐH; tỷ lệ chất thải rắn được thu gom và xử lý ở khu vực nông thôn tăng đạt 75,5% vượt MTĐH.
Cùng đó, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động ổn định. Hiện, toàn tỉnh có 65 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký đạt 1.150 triệu USD. Các dự án này chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp khai thác, chế biến, năng lượng tái tạo, chế biên nông, lâm sản, lắp ráp ô tô và công nghiệp phụ trợ, du lịch - dịch vụ, tập trung chủ yếu tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các địa phương có nhiều lợi thế phát triển công nghiệp, du lịch. Kinh tế tư nhân phá triển khá trên tất cả các lĩnh vực. Hết năm 2025, tổng số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh được cấp giấy chứng nhận đăng ký đạt khoảng 12.500 doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký khoảng 143.000 tỷ đồng; cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động cho 1.200 đơn vị trực thuộc.
Mặt khác, giai đoạn 2021-2025 tỉnh Lào Cai đã ban hành và thực hiện các đề án hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo, hộ cận nghèo và các gia đình chính sách. Triển khai đồng bộ các chương trình, giải pháp giảm nghèo, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững, ưu tiên vùng đặc biệt khó khăn; giảm khoảng cách chênh lệch về đời sống giữa các vùng, các dân tộc. Nên, tỷ lệ giảm hộ nghèo đa chiều bình quân hằng năm khoảng 4%/năm vượt MTĐH (MTĐH là 3,65%/năm); đến nay tỷ lệ hộ nghèo còn 5,71%.
Phạm Quỳnh
Ảnh dùng để minh họa