Từ khoá: Nâng cao chất lượng, tập trung dân chủ, tổ chức cơ sở đảng.
Tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Bộ đội Biên phòng là hạt nhân chính trị ở cơ sở, có vai trò rất quan trọng trong xây dựng Đảng, xây dựng Bộ đội Biên phòng và trong vận động, tổ chức quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của Bộ đội Biên phòng ở cơ sở. Để xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Bộ đội Biên phòng trong sạch vững mạnh, một nhân tố có ý nghĩa quyết định là phải thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ - nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng; nhằm bảo đảm phát huy tính tích cực và sáng tạo của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên, đồng thời bảo đảm xây dựng Đảng thành một tổ chức tập trung thống nhất, có kỷ luật nghiêm minh.
Những năm qua, trên cơ sở quán triệt sâu sắc, triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Quân ủy Trung ương về xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, tổ chức đảng các cấp trong toàn quân luôn “chấp hành nghiêm nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, nội bộ đoàn kết, thống nhất” (1). Ở các tổ chức cơ sở đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ được quán triệt trong toàn bộ các khâu, các bước của quy trình lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ, góp phần “tạo sự đồng thuận, kỷ cương, đoàn kết, thống nhất cao; tăng cường củng cố lòng tin, uy tín của cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo, chỉ huy các cấp” (2); xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện “Mẫu mực, tiêu biểu”. Tuy nhiên, một số tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Quân đội “thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi chưa nghiêm, thậm chí còn vi phạm, mất đoàn kết nội bộ, có nơi còn biểu hiện cục bộ, lợi ích nhóm, kiểm soát quyền lực còn lúng túng, hiệu quả thấp" (3). Vẫn còn có biểu hiện nhận thức chưa đầy đủ về bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ, đem đối lập giữa tập trung với dân chủ, cho rằng nếu tập trung càng cao thì dân chủ càng thấp hoặc mở rộng dân chủ sẽ hạn chế tập trung; thậm chí cho rằng dân chủ chỉ là trong hội nghị, trong việc ra nghị quyết lãnh đạo, dẫn đến quan hệ giữa tổ chức đảng với người chỉ huy còn nhiều bất cập.
Những hiện tượng trên đây có những nguyên nhân khách quan cả về nhận thức lý luận và tổ chức hoạt động thực tiễn. Đặc biệt là những nguyên nhân về phía chủ quan công tác tổ chức. Đó là những hiện tượng nhận thức sai và không thống nhất về nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc xây dựng, hướng dẫn quy chế, quy định, nhằm cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ và các nguyên tắc tổ chức, tạo nên hệ thống quy tắc đồng bộ, thuận tiện trong quá trình thực hiện còn chậm và thiếu cụ thể. Việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ của các tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Bộ đội Biên phòng đều phản ánh thực trạng của một số tổ chức cơ sở đảng trong toàn Đảng. Tuy nhiên, do đặc thù nhiệm vụ và tổ chức biên chế, những biểu hiện sai lệnh trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng bộ Bộ đội Biên phòng có điểm đáng chú ý là xoay quanh mối quan hệ giữa lãnh đạo và chỉ huy, giữa cấp trên và cấp dưới.
Để thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ Bộ đội Biên phòng trong tình hình mới cần thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp sau:
Thứ nhất, quán triệt cho cán bộ, đảng viên nhận thức đầy đủ và thống nhất về nguyên tắc tập trung dân chủ
Đặc biệt chú trọng nâng cao trình độ vận dụng và tổ chức thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ cho cấp ủy viên, nhất là bí thư cấp ủy. Cần kết hợp giữa việc tổ chức bồi dưỡng của cấp ủy với việc động viên, khích lệ tự học tập, tự bồi dưỡng của từng đảng viên, làm cho mọi cấp ủy viên, mọi đảng viên nắm vững vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng, bản chất, nội dung cụ thể của nguyên tắc; có ý thức tôn trọng, tự giác, chủ động, kiến quyết đấu tranh bảo vệ và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ. Tính cực bồi dưỡng cách thức tổ chức, quy trình, thủ tục và kinh nghiệm thực hiện từng nội dung cụ thể của nguyên tắc cho các cấp ủy viên. Đồng thời cần thống nhất trong từng tổ chức đảng về phương pháp, cách thức thảo luận, phê bình, cách làm việc, xử lý công việc, xử lý các mối quan hệ theo đúng nội dung và yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ.
Thứ hai , cụ thể hóa nội dung, yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ thành chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn, các mối quan hệ và chế độ công tác của từng cán bộ, đảng viên; quy chế làm việc, quy chế lãnh đạo của từng cấp ủy, tổ chức đảng
Quy chế là cơ sở để thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, là căn cứ để đánh giá, nhận xét, kiểm điểm, giúp cho quá trình hoạt động lãnh đạo và xây dựng các tổ chức đảng có chất lượng tốt; ngược lại, quy chế chung chung, hình thức, chiếu lệ, đối phó, sẽ thiếu căn cứ thực hiện, tạo điều kiện cho những biểu hiện quan liêu, gia trưởng hoặc dân chủ vô nguyên tắc xảy ra; do đó cần quán triệt, cụ thể hoá xây dựng quy chế làm việc, lãnh đạo thực sự đầy đủ, khoa học, chặt chẽ, cụ thể, tính khả thi cao. Cùng với đó, cần tập trung xây dựng và ban hành các quy định nhằm cụ thể hóa nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, xác định rõ chế độ, chức trách của lãnh đạo với chỉ huy các cấp. Có quy định cụ thể về chế độ: thiểu số phục tục đa số. Có kế hoạch, chương trình cụ thể để tăng cường công tác kiểm tra của cấp trên với cấp dưới. Thực hiện nghiêm túc chế độ bảo lưu ý kiến của từng đảng viên. Hoàn thiện các quy chế công tác cán bộ, xây dựng thành chế độ cán bộ đi cơ sở, bám sát cơ sở, chỉ đạo tại chỗ, chống quan liêu. Đề cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong thực hiện quy chế, chế độ công tác; kịp thời điều chỉnh, bổ sung, cập nhật khi có những quy định mới của cấp trên hoặc yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Thứ ba, giữ vững và nâng cao chất lượng sinh hoạt của cấp ủy, tổ chức đảng
Đặc biệt chú ý phát huy dân chủ, tăng số lượng đi đôi với nâng cao chất lượng các ý kiến trong hội nghị của các tổ chức đảng. Bên cạnh việc nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực tư duy làm cơ sở cho việc vận dụng vào quá trình chuẩn bị và ra các quyết định, phải tìm những hình thức, biện pháp nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ nội bộ. Ý kiến đề xuất phải vạch rõ những vấn đề yếu kém nổi cộm, bức xúc để bàn bạc, quyết định, tránh dài dòng, sai lệnh trọng tâm, không rõ chính kiến. Cần coi việc tham gia ý kiến, trình bày chính kiến cá nhân trong trong sinh hoạt đảng là nhiệm vụ bắt buộc với từng đảng viên và phải được quy định rõ ràng, trở thành một tiêu chí đánh giá, phân loại đảng viên. Đồng thời, cần kiên quyết đấu tranh khắc phục hiện tượng dân chủ hình thức và mọi biểu hiện của tệ quan liêu, gia trưởng độc đoán trong tổ chức đảng. Việc duy trì các cuộc họp phải đi đúng trọng tâm, phải biết lắng nghe, định hướng, khêu gợi vấn đề, phát hiện và kết luận vấn đề một cách chính xác, tránh kết luận chung chung, dung hòa các ý kiến cốt làm vừa lòng mọi người. Người lãnh đạo phải nên rèn luyện ý thức dân chủ, bình đẳng trong tranh luận, thảo luận, khắc phục thói gia trưởng, coi thường hoặc gò ép, áp đặt ý kiến đối với đảng viên. Mọi chủ trương, biện pháp lãnh đạo đều phải được quyết định bằng trí tuệ tập thể, trách cục bộ, bè phái, hoặc quan liêu, duy ý chí, dân chủ hình thức, độc đoán chuyên quyền. Có như thế mới đảm bảo có nghị quyết lãnh đạo đúng đắn
Thứ ba, thực hiện nghiêm túc nền nếp chế độ tự phê bình và phê bình
Bí thư, cấp ủy, người chỉ huy các cấp phải gương mẫu, nghiêm túc trong tự phê bình và phê bình. Chống các biểu hiện giải quyết không đúng mối quan hệ giữa lãnh đạo và chỉ huy, lấn lướt phạm vi, trách nhiệm và quyền hạn của nhau; đồng thời cũng phải cảnh giác và kiên quyết ngăn chặn các hiện tượng tìm cách dung hòa giữa người chỉ huy và và bí thư cấp ủy vì những động cơ cá nhân, cục bộ. Do đó, cần phải phát huy dân chủ, có cơ chế phù hợp lấy ý kiến quần chúng phê bình, đóng góp đối với cán bộ, đảng viên. Có quy định cụ thể để bảo vệ những người dám phê bình thẳng thắn với những hiện tượng sai trái, những biểu hiện vi phạm nguyên tắc của cán bộ, đảng viên. Đồng thời xử lý nghiêm minh những hiện tượng lợi dụng phê bình để vu cáo, đả kích cá nhân, gây rối nội bộ. Cán bộ, đảng viên phải giữ gìn đoàn kết thống nhất trên cơ sở cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng và tình thương yêu đồng chí, đồng đội.
Thứ năm, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy chế hoạt động của các cấp ủy, tổ chức đảng .
Kiểm tra phải đi đôi với kết luận rõ ràng, đặc biệt là việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, kịp thời phát hiện những vấn đề sai trái, chấn chỉnh và xử lý đúng đắn, nghiêm minh những biểu hiện đó. Phải chú trọng phát huy vai trò kiểm tra, giám sát của quần chúng với cán bộ, đảng viên. Cần kết hợp kiểm tra thường xuyên, định kỳ với kiểm tra bất thường, bảo đảm thường xuyên nắm vững thực chất tình hình chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, chấp hành nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của tổ chức đảng. Kịp thời phát hiện, xem xét kết luận, xử lý bằng những hình thức kỷ luật thích đáng đối với những đảng viên có sai phạm trong chấp hành nghị quyết, hoặc có những lời nói, việc làm trái với quan điểm, nghị quyết của Đảng, những hiện tượng độc đoàn, chuyên quyền, xuê xoa, giấu khuyết điểm, "xử lý nội bộ". Đề cao tính đảng, ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong xây dựng tổ chức đảng và thực hiện các nhiệm vụ được giao. Có quy chế để cấp ủy, tổ chức đảng quản lý cán bộ, đảng viên khi đi công tác cũng như ở nơi cư trú. Mở rộng, phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, “thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, đoàn kết trong Đảng” (4). Mọi hành vi vô tổ chức, vô kỷ luật, không chấp hành nghị quyết, gây chia rẽ bè phái đều phải xử lý nghiêm minh. Luôn đề cao cảnh giác và kiên quyết đấu tranh với những âm mưu thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ của các thế lực thù địch.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng, thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc này là để tổ chức cơ sở đảng và toàn Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, đoàn kết, thống nhất trong tư tưởng và hành động; nâng cao tính tích cực và năng lực sáng tạo của đảng viên, để các quyết định của cấp uỷ, tổ chức đảng luôn là sản phẩm kết tinh bởi trí tuệ tập thể và bảo đảm tính kỷ luật tự giác của mỗi tổ chức đảng và đảng viên; góp phần xây dựng tổ chức cơ sở đảng - nền tảng của Đảng luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ./.
Đại tá, ThS NGUYỄN VĂN SƠN
Tài liệu tham khảo:
(1) (2) Tổng Cục Chính trị (2020), Tài liêụ nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025, Nxb QĐND, Hà Nội, tr.29-30, tr.33.
(3) Quân ủy Trung ương (2019), Kết luận của Thường vụ Quân ủy Trung ương về tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội giai đoạn mới , Số 111- KL/ QUTW, ngày 12/02/2019.
(4) Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên gian đoạn mới, Số 21-NQ/TW, ngày 16/6/2022, tr. 6.
Khoa Công tác đảng, công tác chính trị/Học viện Biên phòng