Điều lệ Đảng hiện hành quy định: "Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ)" [1]. Quy định số 202-QĐ/TW, ngày 02/8/2019 của Ban Bí thư về "Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của cấp uỷ, ban thường vụ, thường trực cấp uỷ cấp huyện" nêu rõ: "Cấp uỷ cấp huyện là cơ quan lãnh đạo giữa hai kỳ đại hội của đảng bộ cấp huyện; có chức năng lành đạo thực hiện nghị quyết đại hội đảng bộ cấp mình, các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, kết luận của cấp trên và chính sách, pháp luật của Nhà nước; đề xuất, kiến nghị với cấp uỷ cấp tỉnh những vấn đề có liên quan đến sự lãnh đạo của cấp uỷ cấp tỉnh đối với địa phương" [2].
Như vậy, cấp ủy cấp huyện là cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ huyện giữa hai kỳ đại hội và do đại hội đảng bộ cùng cấp bầu ra. Cấp ủy cấp huyện là hạt nhân chính trị, đại biểu cho trí tuệ, năng lực và sức mạnh của đảng bộ huyện; là trung tâm của khối đoàn kết thống nhất trong đảng bộ và Nhân dân. Cấp uỷ cấp huyện có vai trò quan trọng quyết định các hoạt động của đảng bộ. Vai trò đó thể hiện:
- Đối với công tác xây dựng đảng, cấp ủy cấp huyện là cơ quan lãnh đạo các tổ chức đảng trực thuộc và đội ngũ đảng viên tiến hành công tác xây dựng đảng trên các mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức tổ chức và cán bộ; lãnh đạo thực hiện chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy cấp trên, nghị quyết đại hội đảng bộ huyện, xây dựng và lãnh đạo tổ chức thực hiện các nghị quyết trong nhiệm kỳ của đảng bộ huyện.
- Đối với hệ thống chính trị ở cấp huyện. Cấp ủy cấp huyện lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ và lãnh đạo các mặt hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội. Khi chức năng, nhiệm vụ của chính quyền, đoàn thể nhân dân trong hệ thống chính trị cấp huyện có điều chỉnh, bổ sung, thay đổi, cấp ủy cấp huyện có trách nhiệm lãnh đạo xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy theo định hướng của cấp trên. Đồng thời cấp ủy cấp huyện có trách nhiệm lãnh đạo thực hiện tốt các khâu của công tác cán bộ: đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, điều động, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chính sách cán bộ theo phân cấp.
- Đối với các mặt đời sống xã hội ở cấp huyện. Nhìn chung, cấp ủy cấp huyện lãnh đạo tất cả các mặt đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng, an ninh… Sự lãnh đạo của cấp ủy cấp huyện đảm bảo cho các lĩnh vực của đời sống xã hội theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và đạt hiệu quả, nâng cao đời sống mọi mặt của các tầng lớp nhân dân.
- Đối với chỉ thị, nghị quyết của cấp trên. Cấp ủy cấp huyện là cơ quan tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị của cấp trên; đồng thời tiến hành sơ kết, tổng kết việc tổ chức thực hiện; đóng góp ý kiến xây dựng chủ trương, chính sách cảu cấp trên. Nghị quyết, chỉ thị của cấp trên có tính định hướng, lãnh đạo nhiều tổ chức đảng có chức năng, nhiệm vụ khác nhau, do đó cấp ủy cấp huyện phải tiến hành cụ thể hóa chủ trương, chính sách của cấp trên thành chương trình, kế hoạch hành động phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, đồng thời tổ chức thực hiện tốt chương trình, kế hoạch hành động để góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cấp trên.
- Đối với công tác kiểm tra, giám sát. Cấp ủy cấp huyện tiến hành lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của cấp ủy cấp trên và cấp mình, của các tổ chức đảng trực thuộc và đội ngũ đảng viên, từ đó phát hiện những những nhân tố mới, tích cực để nhân rộng, đồng thời phát hiện những lệch lạc về nhận thức, tư tưởng và hành động để kịp thời uốn nắn, ngăn chặn, hạn chế tối đa những tác động tiêu cực, kịp thời xử lý những vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên của đảng bộ huyện theo quy định của Đảng.
Để thực hiện tốt vị trí, vai trò của cấp uỷ cấp huyện, yêu cầu việc nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của cấp uỷ cấp huyện là vấn đề có tính quy luật, tất yếu khách quan trong xây dựng Đảng, xây dựng các cấp uỷ, tổ chức đảng cấp huyện trong sạch, vững mạnh. Năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của cấp uỷ cấp huyện là một chỉnh thể thống nhất, không tách rời nhau, là hai mặt của một vấn đề. Nếu không có năng lực lãnh đạo, cầm quyền thì không thể có sức chiến đấu và không có sức chiến đấu thì không thể lãnh đạo, cầm quyền. Tuy nhiên, để xác định đúng về năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của cấp uỷ cấp huyện, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, xác định hệ tiêu chí đánh giá năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của cấp uỷ cấp huyện. Trong khuôn khổ của bài viết này, chúng tôi xin được nghiên cứu, trao đổi bước đầu về hệ tiêu chí đánh giá năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của cấp uỷ cấp huyện ở Thanh Hoá hiện nay.
Hiện nay, có nhiều cách tiếp cận về tiêu chí xác định năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của cấp uỷ cấp huyện, điều này xuất phát từ phạm vi, đối tượng lãnh đạo của cấp uỷ cấp huyện rất đa dạng, phong phú, cụ thể như: (1) cách tiếp cận từ nội dung lãnh đạo; (2) cách tiếp cận từ lĩnh vực lãnh đạo; (3) cách tiếp cận chung về năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu (4) cách tiếp cận liên cấp (5) cách tiếp cận vùng miền. Mỗi cách tiếp cận của các nhà nghiên cứu đều dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc, phương pháp tiếp cận phù hợp. Tuy nhiên, các cách tiếp cận và kết quả nghiên cứu trên về tiêu chí đánh giá năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng còn chung chung, mà chưa đi vào nghiên cứu cụ thể về hệ tiêu chí đánh giá năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của cấp uỷ cấp huyện. Để tiếp tục nghiên cứu, góp phần làm rõ hơn về hệ tiêu chí đánh giá năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của cấp uỷ cấp huyện, chúng tôi tập trung nghiêm cứu làm rõ 2 nhóm tiêu chí đó là: Nhóm về năng lực lãnh đạo, cầm quyền của cấp uỷ cấp huyện và nhóm tiêu chí về sức chiến đấu của cấp uỷ cấp huyện.
Nhóm tiêu chí năng lực lãnh đạo, cầm quyền của cấp uỷ cấp huyện:
Năng lực lãnh đạo, cầm quyền của cấp uỷ cấp huyện là khả năng nhận thức, quán triệt, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; đề ra nghị quyết, nhiệm vụ chính trị phù hợp với thực tiễn tại địa phương, đơn vị; khả năng lãnh đạo chính quyền, các đoàn thể; khả năng tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân tổ chức thực hiện; khả năng kiểm tra, giám sát, tổng kết, rút kinh nghiệm; bổ sung, hoàn thiện nghị quyết, nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị.
Nhóm tiêu chí đánh giá năng lực lãnh đạo, cầm quyền của cấp uỷ cấp huyện bao gồm:
Một là, năng lực nghiên cứu, cụ thể hóa, đề ra các chủ trương, nghị quyết, kết luận của Đảng bộ, chi bộ đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương, đơn vị.
Một trong những phương thức lãnh đạo quan trọng của Đảng là đề ra và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết... Đảng ta yêu cầu các cấp ủy đảng, tổ chức đảng phải "Kịp thời thể chế hóa, cụ thể hóa, triển khai đúng đắn, hiệu quả chủ trương đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước…" [3] sát với đặc điểm, tình hình của địa phương, đơn vị. Từ thực tiễn cách mạng của dân tộc ta đã chứng minh, sự thành công của cách mạng luôn bắt nguồn từ việc Đảng đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn và quyết tâm, quyết liệt, sáng tạo trong tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương. Đây là cơ sở để xây dựng tiêu chí đầu tiên để đánh giá năng lực lãnh đạo, cầm quyền của cấp uỷ cấp huyện thông qua việc cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành các nhiệm vụ chính trị phù hợp với thực tiễn của địa phương, đơn vị.
Từ đó, năng lực này yêu cầu mỗi cấp uỷ cấp huyện phải nhận thức một cách đầy đủ, toàn diện và sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; am hiểu điều kiện thực tế của địa phương, đơn vị; thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân. Đồng thời, đòi hỏi mỗi cấp uỷ, tổ chức đảng và đảng viên cần có tư duy, tầm nhìn để xác định mục tiêu, nhiệm vụ phát triển của địa phương, đơn vị đúng đắn, phù hợp.
Hai là, năng lực tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục cán bộ, đảng viên và Nhân dân thấu triệt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục là biện pháp, cách thức hữu hiệu, mạnh mẽ, sắc bén để đưa đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước đi vào thực tiễn đời sống Nhân dân; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội; tạo sự thống nhất trong ý chí và hành động trong xã hội; cỗ vũ nhân dân thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của địa phương, đơn vị. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa VI yêu cầu: "Các tổ chức đảng từ Trung ương đến chi bộ đều phải lấy công tác vận động và chăm lo lợi ích của quần chúng làm nội dung chủ yếu trong hoạt động của mình" [4].
Từ đó, yêu cầu đặt ra đối với cấp uỷ cấp huyện là phải làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân "Hiểu", "Tin" và "Làm theo" chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; đảm bảo mọi chủ trương, nghị quyết đi vào cuộc sống; Nhân dân thực sự được tham gia xây dựng, kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội; làm cho chủ trương, nghị quyết thực sự từ Nhân dân, phục vụ lợi ích của Nhân dân; đảm bảo cho "hơi thở" của cuộc sống đi vào nghị quyết. Đồng thời, mọi tổ chức đảng và đảng viên phải trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân; nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin.
Ba là, năng lực xây dựng tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ.
Từ thực tiễn đã chứng minh, mọi đường lối chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước có đi vào cuộc sống, có được Nhân dân đồng tình ủng hộ hay không, có trở thành phong trào cách mạng của quần chúng hay không thì yếu tố có ý nghĩa quyết định, đó là vai trò, năng lực của tổ chức bộ máy và của đội ngũ cán bộ. Từ đó, yêu cầu của mỗi cấp uỷ cấp huyện là phải tập trung xây dựng tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực hiệu quả; đội ngũ cán bộ kỷ cương, liêm chính. Đồng thời, mỗi cấp uỷ cấp huyện phải phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của Nhân dân; xác định rõ mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn; phải có quyết tâm cao, phân định rõ trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở; xây dựng cấp uỷ, tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh; kiện toàn tổ chức bộ máy chính quyền, đảm bảo tính chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả; hoàn thiện tổ chức bộ máy của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội gắn với đổi mới nội dung, phương thức hoạt động.
Bốn là, năng lực "nêu gương" của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Việc nâng cao chất lượng, phát huy vai trò tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên là nền tảng, uy tín, năng lực lãnh đạo của Đảng, là yêu cầu khách quan, bắt nguồn từ vị trí, vai trò, sứ mệnh lịch sử của Đảng; là một trong những nội dung quan trọng trong xây dựng Đảng về đạo đức. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền" [5]; do vậy, "Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [6].
Từ đó, yêu cầu của cấp uỷ, tổ chức đảng và đảng viên phải: (1) Tiên phong làm trước, thực hành trước, nhất là những nhiệm vụ mới, nhiệm vụ khó; (2) "Làm mẫu" nội dung "làm mẫu" là "nói đi đôi với làm"; (3) Hướng dẫn để cán bộ, đảng viên và Nhân dân làm theo. Ngoài ra, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế về nêu gương; thực hiện nghiêm các quy định, quy chế làm việc; xác định rõ trách nhiệm tự giác, gương mẫu học trước, làm trước của người đứng đầu, cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, đề cao vai trò tiền phong, gương mẫu của người đứng đầu; tăng cường kiểm tra, giám sát về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên.
Năm là, năng lực kiểm tra, giám sát; sơ kết, tổng kết thực tiễn.
Năng lực này yêu cầu cần phải duy trì sự đoàn kết, thống nhất; đảm bảo thực hiện dân chủ trong đảng bộ, chi bộ; giữ vững kỷ cương, kỷ luật của đảng bộ, chi bộ; phòng ngừa, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; khắc phục tình trạng vi phạm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; kịp thời đánh giá đúng ưu điểm của tổ chức đảng và đảng viên để phát huy; phát hiện, làm rõ những thiếu sót, khuyết điểm để uốn nắn, khắc phục và xử lý. Từ đó, đòi hỏi cấp uỷ cấp huyện, tổ chức đảng và đảng viên, phải có năng lực phát hiện dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên nhất là những vi phạm mới; đảm bảo quy trình, nguyên tắc, phương pháp kiểm tra, giám sát; chủ động ngăn ngừa, ngăn chặn xảy ra vi hạm của tổ chức đảng và đảng viên.
Nhóm tiêu chí về sức chiến đấu của cấp uỷ cấp huyện
Sức chiến đấu của cấp uỷ cấp huyện là sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, là sự thống nhất về ý chí và hành động, nhằm tạo nên sức mạnh, sức bền nội tại của cấp uỷ cấp huyện, là ý chí vượt lên trong mọi hoàn cảnh để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, là khả năng đấu tranh với các thế lực thù địch trên mọi lĩnh vực chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; bảo vệ trong sạch nội bộ, là tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên, là sự gắn kết Đảng với quần chúng và uy tín của Đảng trong quần chúng.
Nhóm tiêu chí đánh giá sức chiến đấu của cấp uỷ cấp huyện bao gồm:
Một là, trình độ giác ngộ, bản lĩnh chính trị của đội ngũ đảng viên, cấp ủy viên trước mọi biến động của tình hình chính trị - xã hội. Đây là một trong những nội dung đặc biệt quan trọng của nội hàm nâng cao sức chiến đấu của cấp uỷ cấp huyện. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Nâng cao trình độ lý luận và chính trị, cải tạo mình là một việc trường kỳ và gian khổ. Nhưng đó là một công tác chủ chốt trong việc xây dựng Đảng mà mỗi đảng viên phải cố gắng" [7].
Nội hàm bản lĩnh chính trị thể hiện ở sự kiên định - bảo vệ - phát triển. Trước hết là kiên định: (1) kiên định nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng; (2) kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; (3) kiên định đường lối đổi mới của Đảng; (4) kiên định các nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng. Bảo vệ: (1) bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; (2) kiên quyết, kiên trì đấu chống lại các luận điệu xuyên tạc, lệch lạc, phản động, của các thế lực thù địch để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ Tổ quốc; (3) bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phát triển: Nghiên cứu và khẳng định bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện mới; vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với điều kiện lịch sử của địa phương, đơn vị; đẩy mạnh nghiên cứu tổng kết thực tiễn, góp phần bổ sung, phát triển chủ trương, đường lối của Đảng.
Hai là, sức đề kháng trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch.
Nội hàm sức đề kháng thể hiện ở việc phát hiện - đấu tranh - vượt khó. Từ đó, cấp uỷ cấp huyện cần nâng cao khả năng phát hiện, nhận biết những âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng nước ta của các thế lực phản động trong và ngoài nước; nâng cao khả năng đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch; nâng cao khả năng vượt qua những khó khăn, thách thức của bối cảnh trong thời kỳ mới.
Ba là, sức khắc phục những hạn chế, yếu kém trong tổ chức đảng và đảng viên.
Nội hàm sức khắc phục thể hiện ở sự nhận biết - sửa chữa - tiến bộ. Từ đó, cần nâng cao khả năng nhận biết những hạn chế, yếu kém trong cấp uỷ, tổ chức đảng và đảng viên; khả năng nhận biết những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; nâng cao quyết tâm sửa chữa những hạn chế, yếu kém; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác xây dựng Đảng, để tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên thực sự là "đạo đức, văn minh".
Bốn là, khả năng tự phê bình và phê bình trong Đảng.
Nội hàm khả năng tự phê bình và phê bình thể hiện ở việc chủ động, tự giác - dũng khí - liêm sỉ. Từ đó, đòi hỏi mỗi cấp uỷ cấp huyện và đảng viên phải chủ động, tự giác thực hành tự phê bình và phê bình như "soi gương, rửa mặt hằng ngày"; tự phê bình và phê bình đòi hỏi mọi cấp uỷ cấp huyện và đảng viên phải có dũng khí đấu tranh thẳng thắn, chân tình; thực hiện tự phê bình và phê bình đòi hỏi đề cao tính liêm sỉ, không tranh công, đổ tội; phải chịu trách nhiệm cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa. Muốn sửa chữa cho tốt thì phải sẵn sàng nghe quần chúng phê bình và thật thà tự phê bình. Không chịu nghe phê bình và không tự phê bình thì nhất định lạc hậu, thoái bộ. Lạc hậu, thoái bộ sẽ bị quần chúng bỏ rơi" [8].
Năm là, tự chỉnh đốn, tự đổi mới đảm bảo vai trò lãnh đạo của cấp uỷ cấp huyện.
Nội hàm tự chỉnh đốn, tự đổi mới thể hiện ở việc nghiên cứu - tổng kết - đổi mới phương thức lãnh đạo. Đảng ta chỉ rõ: "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh" [9]. Từ đó tiếp tục nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn; nghiên cứu lý luận, phát triển trí tuệ, tư duy, tầm nhìn của mỗi cấp uỷ cấp huyện; đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp uỷ cấp huyện phải đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế, thực hành dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng.
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu này, đòi hỏi khách quan đòi hỏi toàn Đảng ta, các cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của mình. Theo đó, việc xác định rõ các tiêu chí đánh giá năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của cấp uỷ cấp huyện ở Thanh Hoá là yêu cầu cấp thiết, nhằm làm cơ sở để đánh giá thực trạng cũng như đề xuất các giải pháp phù hợp, khả thi nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của cấp uỷ cấp huyện trong giai đoạn hiện nay./.
TS. Lương Trọng Thành
Tỉnh uỷ viên, Hiệu trưởng Trường Chính trị tỉnh Thanh Hoá
Chú thích:
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Điều lệ Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam, khoá XI, nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2015, tr.17.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Quy định số 202-QĐ/TW, ngày 02/8/2019 của Ban Bí thư về "Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của cấp uỷ, ban thường vụ, thường trực cấp uỷ cấp huyện".
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, H, 2021, t.1, tr.180.
[4]. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2007, t.50, tr.89.
[5]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, t.1, tr.284
[6]. Hồ Chí Minh: Sđd, t5, tr.292.
[7]. Hồ Chí Minh: Sđd, t7, tr.120.
[8]. Hồ Chí Minh: Sđd, t.11, tr.608-609.
[9]. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, H, 2021, t.1, tr.95.