Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, CĐS đã trở thành xu thế tất yếu không thể đảo ngược. Đối với hệ thống các NTQĐ - nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, việc bồi dưỡng năng lực CĐS của đội ngũ GVT đang trở thành yêu cầu cấp thiết hơn bao giờ hết.
Xuất phát từ yêu cầu khách quan từ cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra những thách thức mới cho giáo dục quân sự. Sự xuất hiện của các công nghệ mới như AI, Big Data, IoT... đã làm thay đổi căn bản phương thức đào tạo, đòi hỏi giảng viên phải liên tục cập nhật kiến thức và kỹ năng mới. Cùng với đó, đặc thù của giáo dục quân sự trong thời đại số đòi hỏi sự thích ứng cao. Các môn học chuyên ngành quân sự như chiến thuật, chiến dịch, kỹ thuật quân sự... cần được giảng dạy bằng các phương pháp hiện đại như mô phỏng 3D, thực tế ảo để nâng cao hiệu quả đào tạo. Điều này đặt ra yêu cầu bắt buộc về năng lực số cho GVT. Yêu cầu về bảo mật thông tin quân sự cũng đòi hỏi GVT phải có kiến thức chuyên sâu. Trong bối cảnh các cuộc tấn công mạng ngày càng tinh vi, việc đào tạo kỹ năng bảo mật, an toàn thông tin cho GVT trở thành nhiệm vụ sống còn. Trong xu thế hội nhập quốc tế, giáo dục quân sự đòi hỏi nâng cao năng lực cạnh tranh. Các NTQĐ không chỉ đào tạo cho quân đội trong nước mà còn tham gia đào tạo quốc tế, đòi hỏi giảng viên phải có khả năng sử dụng thành thạo các công nghệ giảng dạy tiên tiến trên thế giới. Đặc biệt, chủ trương của Đảng và Nhà nước về CĐS đã được thể hiện rõ trong nhiều văn kiện quan trọng. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh yêu cầu "đẩy mạnh CĐS trong mọi lĩnh vực", trong đó có giáo dục - đào tạo. Chiến lược phát triển giáo dục quốc phòng đến năm 2030 cũng xác định CĐS là một trong những nhiệm vụ trọng tâm.
Như vậy, việc bồi dưỡng năng lực CĐS của GVT ở NTQĐ không chỉ là yêu cầu cấp thiết trước sự phát triển của khoa học công nghệ, mà còn là nhiệm vụ chiến lược góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, xây dựng quân đội cách mạng trong thời đại mới. Hệ thống tiêu chí đánh giá bồi dưỡng năng lực CĐS của đội ngũ GVT ở NTQĐ hiện nay được thể hiện trên một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, nhận thức, trách nhiệm của chủ thể, lực lượng bồi dưỡng năng lực CĐS của đội ngũ GVT ở NTQĐ.
Đây là tiêu chí đóng vai trò then chốt, có tính quyết định đến chất lượng và hiệu quả của toàn bộ quá trình này. Trong bối cảnh hiện nay, khi CĐS trở thành yêu cầu bắt buộc đối với hệ thống giáo dục - đào tạo quân sự, việc nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của tất cả các chủ thể liên quan càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Đối với cấp ủy, tổ chức đảng, nhận thức và trách nhiệm được thể hiện thông qua việc ban hành các nghị quyết, chỉ thị chuyên đề về CĐS một cách kịp thời và phù hợp. Cần đánh giá mức độ cụ thể hóa các chủ trương của Đảng, Nhà nước và Quân ủy Trung ương thành các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể trong nghị quyết của cấp ủy các cấp. Đồng thời, phải xem xét tính hiệu quả của công tác tổ chức triển khai, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết này, cũng như sự quan tâm trong việc bố trí các nguồn lực cần thiết (nhân lực, vật lực, tài lực) cho công tác bồi dưỡng. Về phía lãnh đạo, chỉ huy các cấp, cần đánh giá mức độ quán triệt và tổ chức thực hiện các chủ trương của cấp trên về công tác bồi dưỡng năng lực CĐS. Yếu tố sáng tạo trong chỉ đạo triển khai các hoạt động bồi dưỡng, hiệu quả giải quyết các khó khăn, vướng mắc phát sinh, cũng như sự quan tâm đến công tác thi đua, khen thưởng đều là những chỉ báo quan trọng về mức độ trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy các cấp. Đối với các cơ quan chức năng, cần tập trung đánh giá chất lượng công tác tham mưu, đề xuất các giải pháp bồi dưỡng. Tính khoa học và khả thi của các nội dung, chương trình đào tạo; hiệu quả của công tác hướng dẫn, tổ chức thực hiện; mức độ thường xuyên trong kiểm tra, đánh giá - tất cả đều phản ánh nhận thức và trách nhiệm của các cơ quan này. Các tổ chức quần chúng cũng đóng vai trò quan trọng trong công tác bồi dưỡng. Cần đánh giá tính chủ động trong phối hợp tổ chức các hoạt động bồi dưỡng, hiệu quả của các phong trào thi đua liên quan đến CĐS, mức độ đóng góp ý kiến xây dựng kế hoạch, cũng như tính sáng tạo trong các hình thức tuyên truyền, vận động. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là nhận thức và trách nhiệm của bản thân đội ngũ GVT - đối tượng trực tiếp thụ hưởng công tác bồi dưỡng. Cần đánh giá nhận thức của họ về vai trò, ý nghĩa của CĐS trong giáo dục quân sự; tinh thần tự giác, chủ động trong học tập, rèn luyện; ý thức vận dụng kiến thức vào thực tiễn giảng dạy; cũng như tinh thần cầu thị, sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp.
Việc đánh giá toàn diện nhận thức và trách nhiệm của các chủ thể cần được thực hiện thông qua nhiều phương pháp khác nhau: phân tích văn bản chỉ đạo, khảo sát ý kiến, quan sát thực tế, phỏng vấn sâu... với hệ thống tiêu chí cụ thể, rõ ràng. Kết quả đánh giá sẽ là cơ sở quan trọng để điều chỉnh, hoàn thiện công tác bồi dưỡng năng lực CĐS cho GVT trong thời gian tới, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo tại các NTQĐ, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Thứ hai, nội dung, hình thức, biện pháp bồi dưỡng năng lực CĐS của đội ngũ GVT ở NTQĐ.
Tiêu chí này đóng vai trò then chốt, quyết định trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả của toàn bộ quá trình đào tạo. Đây không chỉ là thước đo năng lực tổ chức của các đơn vị chức năng mà còn phản ánh tầm nhìn chiến lược và tính sáng tạo trong triển khai thực tiễn của nhà trường trước yêu cầu CĐS toàn diện ngành giáo dục quân sự.
Về nội dung bồi dưỡng, cần được xây dựng một cách hệ thống, khoa học và toàn diện, bao gồm các mảng kiến thức cốt lõi: Nhóm kiến thức nền tảng về CĐS trong giáo dục quân sự, bao gồm các khái niệm cơ bản, xu hướng phát triển và kinh nghiệm quốc tế; Nhóm kỹ năng công nghệ thông tin chuyên sâu như sử dụng các phần mềm giảng dạy tương tác, hệ thống quản lý học tập (LMS), công nghệ thực tế ảo (VR), thực tế tăng cường (AR) ứng dụng trong huấn luyện quân sự; Nhóm kỹ năng sư phạm số bao gồm phương pháp thiết kế bài giảng điện tử, tổ chức lớp học ảo, kiểm tra đánh giá trực tuyến; Nhóm kiến thức về an ninh mạng, bảo mật thông tin quân sự trong môi trường số; Nhóm kỹ năng mềm như giao tiếp số, làm việc nhóm trên nền tảng số, quản lý thời gian trong môi trường số. Đặc biệt, nội dung đào tạo phải được thiết kế linh hoạt, bám sát yêu cầu thực tiễn công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đặc thù của từng chuyên ngành đào tạo trong quân đội.
Về hình thức bồi dưỡng, cần được đa dạng hóa và linh hoạt áp dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nhà trường: Các khóa đào tạo tập trung ngắn hạn và dài hạn do các học viện, nhà trường trong và ngoài quân đội tổ chức; Hình thức đào tạo trực tuyến thông qua các nền tảng số chuyên nghiệp, cho phép giảng viên có thể chủ động thời gian học tập; Các hội thảo, tọa đàm, seminar chuyên đề với sự tham gia của các chuyên gia đầu ngành; Hình thức tự nghiên cứu, tự bồi dưỡng có hướng dẫn thông qua hệ thống tài liệu, học liệu số; Các đợt thực tập, kiến tập tại các đơn vị tiên tiến trong ứng dụng công nghệ số; Tổ chức các cuộc thi, hội thi về ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy; Xây dựng các câu lạc bộ, diễn đàn trao đổi kinh nghiệm về CĐS trong GVT.
Về phương pháp bồi dưỡng, cần áp dụng các phương pháp hiện đại, lấy người học làm trung tâm: Phương pháp học tập qua dự án (project-based learning), gắn với các nhiệm vụ thực tế tại đơn vị; Phương pháp học tập qua trải nghiệm (experiential learning), tạo điều kiện cho giảng viên trực tiếp thao tác, thực hành trên các hệ thống công nghệ; Phương pháp đào tạo kết hợp (blended learning) giữa trực tiếp và trực tuyến; Phương pháp đào tạo theo tình huống (case study), phân tích các ví dụ thực tiễn về CĐS trong giáo dục quân sự; Phương pháp mentoring, kèm cặp giữa giảng viên có kinh nghiệm và GVT; Phương pháp học tập hợp tác (collaborative learning) thông qua các nhóm nghiên cứu, phát triển học liệu số.
Quá trình tổ chức bồi dưỡng cần đảm bảo tính hệ thống và khoa học: Xây dựng lộ trình bồi dưỡng theo từng giai đoạn phù hợp với năng lực tiếp nhận của giảng viên; Thiết kế chương trình theo hướng module, tín chỉ để linh hoạt trong triển khai; Thường xuyên đánh giá, cập nhật nội dung đào tạo để bắt kịp với sự phát triển của công nghệ; Xây dựng hệ thống đánh giá kết quả bồi dưỡng toàn diện, khách quan; Tổ chức các hoạt động bồi dưỡng thường xuyên, liên tục, tránh tình trạng "đánh trống bỏ dùi".
Để đạt được hiệu quả tối ưu, công tác bồi dưỡng cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp ủy đảng, chỉ huy các cấp với các cơ quan chức năng, khoa giáo viên và bản thân đội ngũ GVT. Đặc biệt cần chú trọng xây dựng môi trường khuyến khích sáng tạo, dám nghĩ dám làm trong ứng dụng công nghệ số vào giảng dạy. Cần có cơ chế động viên, khích lệ kịp thời đối với những giảng viên có thành tích xuất sắc trong công tác này.
Việc đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp bồi dưỡng năng lực CĐS của GVT sẽ tạo ra sự chuyển biến căn bản trong chất lượng đội ngũ, góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại trong tình hình mới. Đây chính là nền tảng để các NTQĐ thực hiện thành công sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên số.
Thứ ba, mức độ chuyển biến về năng lực CĐS của đội ngũ GVT ở NTQĐ và kết quả hoàn thành nhiệm vụ của GVT.
Trong bối cảnh toàn quân đang đẩy mạnh CĐS, việc đánh giá hiệu quả bồi dưỡng năng lực CĐS cho đội ngũ GVT cần được thực hiện một cách hệ thống và toàn diện trên nhiều khía cạnh khác nhau. Trước hết, về năng lực công nghệ thông tin cơ bản, cần đánh giá mức độ thành thạo trong việc sử dụng các công cụ số thông qua khả năng khai thác, xử lý và phân tích dữ liệu một cách hiệu quả. GVT cần thể hiện được năng lực tổ chức và quản lý tài liệu khoa học chuyên môn một cách bài bản trên các nền tảng điện toán đám mây như Google Drive, OneDrive, với khả năng phân loại, lưu trữ và chia sẻ tài nguyên số một cách khoa học, hệ thống.
Về năng lực ứng dụng công nghệ trong hoạt động chuyên môn, đây được xem là tiêu chí quan trọng hàng đầu cần được đánh giá kỹ lưỡng. Cụ thể, cần xem xét khả năng thiết kế bài giảng điện tử chất lượng cao với đầy đủ các yếu tố đa phương tiện, tương tác; năng lực triển khai và vận hành hiệu quả hệ thống quản lý học tập trực tuyến (LMS); cùng với đó là mức độ thành thạo trong việc sử dụng các phần mềm chuyên ngành phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Đặc biệt, trong môi trường số hiện nay, năng lực bảo mật thông tin và bảo vệ dữ liệu cá nhân cũng cần được đánh giá một cách nghiêm túc, bao gồm khả năng nhận diện các nguy cơ mất an toàn thông tin và áp dụng các biện pháp phòng ngừa phù hợp. Quan trọng không kém, việc đánh giá cần tập trung vào hiệu quả thực tế thông qua chất lượng các sản phẩm cụ thể của quá trình CĐS. Đó có thể là các giáo trình điện tử được biên soạn công phu, các công trình nghiên cứu khoa học ứng dụng công nghệ cao, hay những sáng kiến cải tiến phương pháp giảng dạy bằng công nghệ số mang tính đột phá. Để có được cái nhìn khách quan và toàn diện, quá trình đánh giá cần được thực hiện định kỳ thông qua nhiều phương pháp đa dạng như: khảo sát thực tế năng lực giảng viên, phân tích chuyên sâu các sản phẩm số hóa, thu thập ý kiến phản hồi từ học viên về chất lượng giảng dạy, cũng như tổ chức các buổi kiểm tra năng lực thực hành. Kết quả đánh giá này sẽ là cơ sở quan trọng để các NTQĐ điều chỉnh, bổ sung chương trình bồi dưỡng cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn, đồng thời xây dựng kế hoạch phát triển năng lực số lâu dài cho đội ngũ GVT. Việc đánh giá toàn diện này không chỉ giúp nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên mà còn góp phần đẩy mạnh quá trình CĐS trong toàn hệ thống các NTQĐ, đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời đại công nghệ 4.0. Đồng thời, đây cũng là cơ sở để xây dựng chính sách đãi ngộ phù hợp, tạo động lực cho GVT không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn và kỹ năng số, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục - đào tạo trong quân đội.
Việc bồi dưỡng năng lực chuyển đổi số của GVT ở NTQĐ là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Thông qua việc xác định rõ các tiêu chí đánh giá, chúng ta có thể từng bước xây dựng đội ngũ GVT đáp ứng yêu cầu của giáo dục, đào tạo ở NTQĐ trong thời đại số. Điều này không chỉ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo mà còn thúc đẩy quá trình hiện đại hóa quân đội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Tài liệu tham khảo
- 1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024, Hà Nội, 2024.
- 2. Bộ Chính trị, Nghị quyết về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, số 52-NQ/TW, ngày 27/9/2019, Hà Nội, 2019.
- 3. Bộ Quốc Phòng, Kế hoạch về phát triển Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số trong Bộ Quốc phòng giai đoạn 2022 - 2025, định hướng đến 2030, số 4396/KH-BQP, ngày 04/11/2021, Hà Nội, 2021.
- 4. Bộ Quốc phòng, Quyết định phê duyệt Đề án "Xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục trong Quân đội giai đoạn 2023 - 2030 và những năm tiếp theo", số 3525/QĐ-BQP, ngày 03/8/2023, Hà Nội, 2023.
5. Bộ Thông tin và Truyền thông, Cẩm nang chuyển đổi số, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2021.
- 6. Bộ Tổng tham mưu, Kế hoạch chuyển đổi số trong giáo dục, đào tạo ở các nhà trường Quân đội giai đoạn 2022 - 2025, định hướng đến năm 2030, số 588/KH-BTTM, ngày 04/3/2022, Hà Nội, 2022.
Thái Phi - Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng