Dù đã được hẹn trước và chuẩn bị tâm lý, nhưng tôi vẫn bị bất ngờ, ám ảnh và đầy cảm xúc khi ngồi nghe những câu chuyện thực tế của người cựu chiến binh ấy. Chỉ trong nhiệm kỳ 3 năm từ 2002 đến 2005, ông Hải cùng đồng đội đã quy tập được hơn 100 ngôi mộ về an nghỉ tại Nghĩa Trang Liệt Sĩ Huyện Hướng Hóa, lúc đó ông là Chủ tịch hội Cựu Chiến Binh Thị Trấn Khe Sanh, cũng là thành viên đội Quy Tập Mộ Liệt Sĩ thuộc Hội Cựu Chiến Binh Thị Trấn Khe Sanh.
Ông nói làm công việc này thì chuyện tâm linh và lòng gan dạ là hai thứ phải chấp nhận và hiện hữu khiến tôi thật tò mò.
Bên ấm trà mạn và ly cà phê đặc sản Khe Sanh, ông hồi tưởng lại những câu chuyện xưa thật chi tiết như mới ngày hôm qua.
Câu chuyện thứ 1: Hành trình quy tập ngôi mộ ông Vương Thiết Căng, con trai ông Vương Thừa Vũ, nguyên là Trung tướng, Đại đoàn trưởng Đại Đoàn 308 thời kỳ chống Pháp.

Ông Dương Văn Hải tại nhà riêng, hiện tại ông đã về hưu và đang là Khối trưởng kiêm Bí thư đảng bộ Khối 7- Xã Khe Sanh
Có người dân Vân Kiều đi làm rẫy, vô tình đào được một ít xương cốt, một tấm bia gỗ khắc tên liệt sĩ Vương Thiết Căng, có lẽ là đồng đội khắc vội, cùng một lọ penicilin trong đó có mảnh giấy ghi vội đã úa vàng ghi rõ tên tuổi, đơn vị, ngày mất, đặc biệt ghi thêm chi tiết là con trai Tướng Vương Thừa Vũ, họ báo cáo cho đội quy tập mộ chúng tôi cùng ban chỉ huy quân sự rồi cơ quan báo cáo về bộ tổng tham mưu trình bày sự việc. Sau khi tra cứu chính xác, họ liên hệ và cho chúng tôi số điện thoại người nhà liệt sĩ, nhưng chúng tôi bất ngờ khi nghe người nhà báo rằng mộ liệt sĩ đã được tìm thấy và quy tập về rồi, vì vậy gia đình cũng có chút băn khoăn nghi ngờ. Thấu hiểu tâm tư thân nhân liệt sĩ, chúng tôi cũng đi mượn máy ảnh để chụp một tấm ảnh phần thông tin gửi về cho người nhà và báo cáo tình hình thực tế để gia đình sắp xếp vào xác thực. Với sự bán tín bán nghi, gia đình liệt sĩ vào tìm hiểu, chúng tôi dẫn đoàn đi khảo sát, sau đó gia đình phán đoán mộ này mới chính xác, mộ đã đưa về trước đó nhiều khả năng là nhầm lẫn.
Sau khi tập kết mộ về xong xuôi, gia đình liệt sĩ mời cả đội quy tập mộ chúng tôi một chuyến ra Thủ đô Hà Nội để cảm tạ và còn cho đội rất nhiều hàng quà. Thời đó còn thiếu thốn trăm bề, sự hỗ trợ của gia đình liệt sĩ là một niềm vinh dự, động lực cho đội chúng tôi lắm.

2.Ông Dương Văn Hải chụp tấm ảnh kỷ niệm người Cựu Chiến Binh Việt Nam
Câu chuyện thứ 2: Quy tập mộ ở Lào
Đội chúng tôi được một người dân ở Khối 4 buôn bán tại Lào báo là tìm thấy tấm bia liệt sĩ ở Bản Cu ra đơ, Muang Nong, Tỉnh Savanakhet, Lào, trên bia nhôm có khắc họ tên liệt sĩ là Lê Thanh Thiết, đại đội pháo binh, quê huyện Tiền Hải, Thái Bình. Chúng tôi liên hệ và cung cấp số điện thoại cho phòng lao động thương binh xã hội huyện Tiền Hải, sau đó gia đình liệt sĩ liên hệ tôi và 3 thân nhân liệt sĩ quyết định vào với mong muốn đưa liệt sĩ về, thân nhân vào ở nhà tôi vài ngày để chờ làm thủ tục sang Lào quy tập mộ.
Trước khi quyết định đi quy tập, đồng đội ông Thiết cũng có dặn dò con trai liệt sĩ là ông Lê Thanh Sơn rằng: Giờ con có qua lấy cũng sợ chẳng còn xương, vì bác là người đích thân chôn ba con cùng một số đồng đội tận 2 lần. Lần đầu tiên chôn ba con còn nguyên vẹn, nhưng sau đó Mỹ rải B52 nên thi thể bị quật lên không trung, treo trên các cành cây ngọn cỏ mỗi nơi mỗi thứ mà hầu như chỉ còn thịt đã bị lẫn lộn hết với nhau, bác lại đi nhặt về chôn lại lần 2, con hãy chuẩn bị tinh thần trước nhé.
Sau khi xin được giấy phép, chúng tôi bắt đầu lên đường. Đây có lẽ là hành trình quy tập mộ gian khổ nhất của đoàn chúng tôi, bởi lẽ phải đi bộ hàng trăm cây số từ trạm biên phòng Xã Thanh sang tận bản Cu ra đơ, trèo đèo lội suối với địa thế rừng rậm hiểm trở. Đến nơi chúng tôi phải mất 2 ngày đi bộ lên tận huyện Muang Nong để xin giấy phép rồi lại quay về Bản, không may gặp phải trận lũ quét trong lúc vượt suối, tôi và người dẫn đường bị cuốn trôi xa hàng trăm mét, may mắn thoát nạn.
Đến nơi, đào lên đất đen, mộ không còn xương như dự đoán nhưng thân nhân không bốc đất về mà chỉ lấy 1 đầu pháo sáng làm kỉ vật, đến khi mang về tận quê nhà, vợ liệt sĩ yêu cầu dù không còn hài cốt cũng phải mang được nắm đất về, thế là thân nhân lại gọi cho tôi, nhờ tôi qua Lào 1 lần nữa, tuy nhiên vì xin giấy phép khó khăn, đường đi cách trở nên chúng tôi không thực hiện được.

3.Ông Hải vui vầy bên gia đình giữa đời thường
Câu chuyện thứ 3: Quy tập mộ tại Bản 4 Xã Thuận và giấc mơ chung
Ở Xã Thuận thời chống Mỹ có rất nhiều trạm khẩu, là những nghĩa trang liệt sĩ dã chiến. Vì thời đó hi sinh quá nhiều, nghĩa trang dã chiến thường được dưng trong những khu rừng rậm, có bia mộ nhưng qua thời gian bia mộ nhôm bị người dân lấy bán hết, địa hình bị san phẳng nên không khác gì một mảnh rừng bình thường.
Trên nghĩa trang đó dân mình cuốc đất trồng chuối rồi phát hiện một bộ xương và báo chính quyền, sau khi có thông tin, đội tôi vào để quy tập 2 ngày, tìm được 4 ngôi mộ và đưa về Nghĩa trang liệt sĩ huyện Hướng Hóa.
Tối hôm đó, cả tôi và ông Hùng đều cùng có một giấc mơ, trong mơ liệt sĩ hỏi rằng: Tại sao nhóm tôi 5 người mà các ông chỉ lấy 4, còn tôi sao các ông không mang về?
Ngay sáng hôm sau tôi triệu tập đội và kể về giấc mơ của mình, ông Hùng bật đứng dậy vì giấc mơ quá giống nhau. Thế là đoàn chúng tôi tiếp tục vào lại để tìm, nhưng khổ nỗi sức người có hạn, đào xới một vòng vẫn không thấy, tôi chỉ huy đội dùng thuốn dầm xuống đất để tìm, qua hết mảnh đất bằng tôi thấy đằng xa có 1 cây mít tốt, lá thẫm xanh. Tôi mang thuốn đến dầm dưới gốc thì nghe một tiếng "bụp", tôi đoán chắc là liệt sĩ nằm dưới cây nên chúng tôi chưa tìm tới. Lúc này gặp một vấn đề nan giải, bố già trồng cây không cho phá cây mít để lấy mộ, muốn lấy phải đền 2 triệu đồng. Chúng tôi không thể có 2 triệu thời điểm đó, đành phải ra lại thị trấn tìm gặp ông Tần phòng Thương Binh Xã Hội lúc bấy giờ, ngày hôm sau ông Tần đồng ý cùng chúng tôi vào để xử lý.
Ông Tần nói với ông lão: Chúng tôi đồng ý bồi thường 2 triệu tiền cây mít cho bố, nhưng bố bị phạt lại 4 triệu vì bố trồng cây lên phần mộ liệt sĩ.
Ông lão nghe xong cũng sợ cán bộ và cũng nghĩ thương đội, thương liệt sĩ nên cho phép chúng tôi hạ cây mà không lấy đồng phí nào.
Tối đó, liệt sĩ được đưa ra nghĩa trang nằm cùng đồng đội đồng chí của mình.
Một điều trùng hợp ngẫu nhiên: Hiện tại con gái đầu của tôi và con gái của ông Hùng đều đang công tác tại UBND Xã Thuận.

4.Ông Hải sau khi về hưu vẫn miệt mài lao động và cống hiến
Câu chuyện thứ 4: Những ngôi mộ bên bãi đá ở Hướng Lập
Ngày 21 tết năm 2003, trời Khe Sanh rét đậm rét hại, đoàn lấy mây tại Hướng Lập báo cho đội tôi rằng họ phát hiện có 5 ngôi mộ liệt sĩ, tuy nhiên đường sá khó đi lắm. Đáng lẽ với tình hình thời tiết khắc nghiệt, địa hình hiểm trở và giáp tết, chúng tôi có thể để qua tết mới đi quy tập. Nhưng với nỗi canh cánh các liệt sĩ nằm ngày nào lạnh lẽo ngày đó, tôi chỉ huy đoàn mục tiêu phải lấy được trong 6 ngày, tôi liên hệ Đoàn kinh tế quốc phòng 337 nhờ hỗ trợ xe cộ để di chuyển cho nhanh vì quân đội lúc ấy có xe quân sự Gaz 66. Lúc ấy ông Nguyễn Văn Hoàng đang là trưởng phòng chính trị của sư đoàn 337 giao cho ông Nguyễn Hữu Dũng, chức vụ trợ lý hỗ trợ chúng tôi.
Chúng tôi đón người dân chỉ đường đi hết đường 14, rẽ vào đường rừng thì không có lối mòn, đường ngập nước lầy lội và có những đoạn nước ngập tận Cabin, đoạn đường 12km nhưng đi hết 4 tiếng mới vào tới Bản Mít. Ở đây không thể đi xe được, trời đã tối nên đoàn nghỉ lại một đêm. Sáng hôm sau ông Dũng và 4 anh lính của 337, cùng tôi và ông Hùng leo núi lên tìm mộ.
Đến nơi, tôi thực sự choáng ngợp bởi trong đời tôi đây là những ngôi mộ liệt sĩ đẹp nhất, nằm kẹp giữa hai con suối mát mẻ, được chất đá vuông vức, ngay ngắn, được đào sâu tân 1,5m (các ngôi mộ liệt sĩ thời đó thường chỉ chôn chiến sĩ khoảng 60-80cm) đáng tiếc là phía trước có bia mộ nhưng rất mờ không nhìn rõ thông tin, khi khai quật, tôi càng ngỡ ngàng hơn bởi hình hài tấm bạt bọc còn nguyên vẹn, chiến sĩ như chỉ mới vừa ngủ say, tóc tai, móng tay còn rõ, bên cạnh còn 1 đôi giày và áo quần xếp ngay ngắn. Sau khi rạch túi ra một thời gian thì tóc, thịt bắt đầu rã dần, điều kì dị hơn là có 1 chiến sĩ bị gãy chân thì ở chỗ gãy máu vẫn còn đỏ. Vì thời đó chỉ có bỏ hài cốt liệt sĩ vào Tiểu sành nhỏ, nên buộc chúng tôi phải róc thịt ra, chỉ thu thập xương mang về, tôi chỉ định phải lấy hết toàn bộ phần cốt của chiến sĩ từ răng, móng tay…không được để sót. Các anh lính 337 lần đầu thấy chuyện này không kìm được nôn mửa, bỏ chạy không dám làm. Tôi và ông Hùng ngồi tỉ mẩn từng khâu, bỏ lên vải xô trắng, mang ra suối rửa sạch, dưới Tiểu là vải đỏ, vải xô, trên là hài cốt chiến sĩ. Phần không thể đem về tôi bỏ lại trong bạt bọc, chôn lại trong mộ và khấn vái: Liệt sĩ ơi, thôi thì chúng tôi chỉ lấy được phần hài cốt, phần da thịt các chiến sĩ vẫn nằm lại nơi đây, xin phép cho chúng tôi được đưa hài cốt về với đồng bào đồng đội để chúng tôi dễ bề hương khói.
Tổng cộng hôm đó chúng tôi đưa được 4 nữ liệt sĩ, 1 nam liệt sĩ về, theo quân hàm có thể là 3 nữ quân y, 1 nữ lính đặc nhiệm và 1 nam lính đặc nhiệm, đây có thể là đội hậu cần và trinh sát dẫn đường. Phía xa xa ngôi mộ còn có 1 chiếc xe Zil đã bị cháy hư hỏng.
Đến lúc đưa liệt sĩ về cũng là một hành trình, vì dân bản họ kiêng không cho đưa mộ qua bản, tôi phải đi đường vòng men rừng, đến được nơi xe đón thì mới thở phào, nhưng di chuyển được 500m thì xe bị bó phanh, đứng im không chạy được, lái xe là ông Thanh kiểm tra không bị vấn đề gì. Tôi chợt hiểu ra, các liệt sĩ đang lưu chuyến nơi đây vì đã nằm rất lâu, vị trí quá đẹp, tôi xuống xe thắp hương khấn vái. Xe lại nổ máy, ra tới hết đường lầy, xe lại bó phanh 1 lần nữa, đến đầu đường 14, xe tiếp tục chết máy mà sau khi tôi thắp hương, máy lại nổ bình thường. Sau đó xe chạy 1 mạch đưa chúng tôi về nghĩa trang làm lễ.
Hiện nay 5 ngôi mộ được chôn phía góc trái của Khu A Nghĩa trang liệt sĩ huyện Hướng Hóa.

Một góc Nghĩa trang liệt sĩ Huyện Hướng Hóa, nay là nghĩa trang liệt sĩ Khe Sanh
Câu chuyện thứ 5: Quy tập mộ ở Đakrong và chiếc xe Ba Cầu chết máy
Chúng tôi được Binh đoàn 12 cung cấp sơ đồ vẽ tay một bản đồ đường đi và sơ đồ mộ liệt sĩ để đi quy tập, địa điểm lần này là ở Tà Rùng, huyện Dakrong. Chúng tôi mang 5 ngày lương thực lên đường, đi bộ vài cây số đường rừng, nhưng vì cảnh vật mới lạ, sơ đồ chưa rõ nên loay hoay cả ngày trời chúng tôi không thể tìm thấy, tìm hết 2 ngày mọi người đã đuối sức, đầu giờ chiều ngày thứ 2 có người trong đoàn bảo rằng hết hôm nay không tìm được thì đi về, bất ngờ thay trời bỗng nhiên sẩm tối như đã muộn, tôi chỉ huy mọi người làm lán dã chiến ngủ qua đêm, chúng tôi chặt cành cây làm trụ, bứt tranh làm mái, bất ngờ thay, vừa vén đồng cỏ tranh lên, chúng tôi tìm được một dãy mộ , tổng cộng 34 ngôi mộ nằm ngay ngắn bên nhau. Đoàn đi chỉ có 6 người, lương thực 5 ngày thì không đủ, chúng tôi tranh thủ đào tới hết ngày thứ 6 mới khai quật xong, lúc này ai nấy mệt lả, đuối sức và đói bụng cồn cào. Chúng tôi cố gắng vượt rừng ra sớm nhất, vừa men ra đầu bìa rừng, chúng tôi gặp 1 chiếc xe Ba cầu đang dừng tại đó, tôi hỏi có gì ăn cho chúng tôi xin một ít, may mắn họ còn ít cơm nguội và cá khô, bữa ăn đúng lúc sao mà ngon thế.
Ăn uống xong tôi hỏi: các anh đi đâu mà nghỉ tại đây?
Bác tài bảo: Tôi chở hàng lên Lao Bảo giao mà xe chết máy nằm đây 2 ngày rồi, đang bất lực bác ạ. Tôi như đoán ra điều gì, mạnh dạn bảo: Để tôi chỉ cho các anh 1 cách, chúng tôi vừa quy tập mộ 34 liệt sĩ về, các anh hãy vào thắp cho họ nén hương, khấn vái xin đi, biết đâu xe lại chạy được.
Họ bán tín bán nghi làm theo nhưng thật bất ngờ, xe nổ máy thật và họ cho chúng tôi đi nhờ được ra Đường Chín. Tôi cảm ơn bác tài và thầm cảm ơn các liệt sĩ, các anh thương chúng tôi đuối sức nên đã giúp chúng tôi một đoạn khó khăn đây mà.
Câu chuyện thứ 6: Quy tập mộ ở Ba Tầng và sự tàn ác của lính Mỹ
Sau cái tết Quý Mùi năm 2003, chủ tịch Hội CCB Xã Ba Tầng lúc đó là ông Minh báo rằng dân đào sắt dưới hố bom phát hiện hài cốt liệt sĩ. Tôi lên chiếc xe Dream ngựa chiến của tôi cùng ông Hùng chạy vào khảo sát, sau đó về huy động 6 thành viên trong đội vào quy tập mộ. Di chuyển vào đến nơi đã tối, tối đó đoàn tôi ở lại 1 đêm trong bản, được nghe dân bản kể lại rằng: Thời chống Mỹ thì quả đồi này có 1 sân bay trực thăng dã chiến của Mỹ, là nơi chúng rải quân về và tiếp tế lương thực để tham gia chiến dịch Lam Sơn 719 năm 1971. Đặc công thuộc sư đoàn 320 của ta được cử đến để phá hủy sân bay dã chiến này, đội tổng cộng 13 chiến sĩ, trong quá trình tiếp cận 1 chiến sĩ bất cẩn dẫm phải mìn sáng nên bị phát hiện. Mỹ dùng hỏa lực công kích liên tục dẫn đến 12 người hi sinh, 1 người bị thương nặng.
Tấn công xong chúng tiến tới, dùng thép gai cột xuyên qua 12 chiến sĩ và lùa về hố bom, cho máy ủi dập đất xuống san phẳng, chiến sĩ còn lại bị thương chúng bắt về treo lên cây dừa bên mé suối đầu bản, dùng dao găm rạch bụng, moi gan chia mỗi thằng 1 miếng ăn sống tại chỗ. Hành hạ chiến sĩ đến chết chúng cắt dây dù cho xác rơi xuống suối trôi dạt nên không thể tìm thấy xác.
Cuộc quy tập lần này rất khó khăn vì cả hố bom đã bị san phẳng, với chủ trương không để hài cốt liệt sĩ này lẫn với hài cốt liệt sĩ khác, chúng tôi dùng bay cẩn thận đào từng tí đất một.
Khi tìm thấy chúng tôi òa lên khóc, vòng dây thép gai quấn từ chân và cổ người này sang người khác, chiến sĩ không ai mang quần áo hoàn chỉnh, chỉ mang 1 chiếc quần cọc, đi chân trần, bên hông đeo túi nhọ nồi để hóa trang và thủ pháo để gài vào máy bay cho nổ.
Quân Mỹ ơi, chúng bay ác lắm.
Câu chuyện thứ 7: Quy tập mộ tại Sân Bay Tà Cơn
Tiếp tục với tội ác của bọn lính Mỹ, khi làm đường vào Di tích lịch sử Sân Bay Tà Cơn, đội thi công phát hiện có hài cốt liệt sĩ nên chúng tôi vào lấy, lần này chúng cột liệt sĩ bằng dây dù loại lớn, 7 chiến sĩ bị cột quấn ngang cổ và chân, kéo lê xuống hố bom và san phẳng. Khi tìm thấy mọi người nằm ngang dọc lẫn lộn, chúng tôi cũng phải khai quật cẩn thận để không lẫn lộn hài cốt các chiến sĩ. Có thể đây là đội trinh sát của chúng ta đang thực hiện nhiệm vụ bị chúng phát hiện. Khi tìm thấy các chiến sĩ, có người còn đang nắm dây truyền tin, chỉ mang quần cọc, hông dắt thủ pháo AK, máy truyền tin, chúng tôi không tìm thấy được thông tin liệt sĩ, đành thực hiện thủ tục, kính cẩn cúi đầu và khấn vái xin đưa các liệt sĩ về Nghĩa trang an nghỉ.
Câu chuyện thứ 8: Quy tập mộ ở Húc và khẩu súng AK
Lần đầu chúng tôi vào Húc là để đi quy tập 4 ngôi mộ, được dân rà sắt báo cho hội CCB xã Húc, biết vị trí xa nên ông chủ tịch và một số hội viên CCB Húc chỉ mang theo ít xôi, muối trắng và 1 tay lưới.
Đường đi lên dốc xuống đèo, hành trình 12km đường rừng chỉ có đúng một con đường mòn rộng 1m nhưng bị sói lở nghiêm trọng, sơ sẩy là rơi xuống vực ngay.
Ngoài lề một chút thì phong cảnh Xã Húc đẹp lắm, đường đi vào có một con thác chảy đứng như dải lụa, đến điểm cũng đã quá trưa, ông chủ tịch CCB Húc bảo chúng tôi trưa nay chúng ta ăn canh cá và xôi nhé, mọi người tò mò hỏi cá đâu? Ông đưa tay lưới lên bảo cá đây này. Thì ra với kinh nghiệm dân bản địa, ông biết cần chuẩn bị gì, thế là trưa hôm đó chúng tôi có món canh cá tươi, nếm cùng chút muối và lá lội quanh suối, ăn giữa rừng núi đại ngàn, mà tôi nghĩ đó là nồi canh chua ngon nhất từng ăn.
Quay lại câu chuyện, ông Hải kể rằng, 4 ngôi mộ được chôn quanh hố bom, dân đi rà sắt phát hiện, rồi ông quay sang hỏi tôi: Vậy cháu có biết tại sao ta thường chôn liệt sĩ quanh hố bom không?
Tôi đang suy nghĩ, ông Hải tiếp lời, giọng thoáng nghẹn ngào: Vì bom nó xới cho mềm đất rồi, dễ đào huyệt, dễ xác định vị trí về sau. Tuy nhiên qua năm tháng và những trận mưa bão, mộ đã mất đi hình dáng, chúng tôi phải đào cả khu mới xác định được.
Lần thứ 2 chúng tôi quy tập tại Húc vào khoảng tháng 6 năm 2003, Chủ tịch CCB xã Húc báo rằng dân đi rà bom gặp hài cốt liệt sĩ, chúng tôi tức tốc lên đường.
Vào đến nơi, chúng tôi bắt đầu dò địa thế và đào thì mới thấy, 2 liệt sĩ ra đi trong tư thế tựa lưng vào đất, mặt hướng ra suối, một chiến sĩ vai đeo khẩu AK, trước mặt là 1 cáng tải thương, 1 chiến sĩ đeo bi đông có tên Nguyễn Nam. Tôi đoán rằng có thể khi ra đi liệt sĩ đang bị thương và bị rải bom tọa độ nên đang nép mình vào bờ suối rồi bị đất lấp lên, người dân rà mìn đụng cái mũ cối sắt và họ lấy mũ lên thì thấy cả hài cốt nên chạy vội đi báo.
Khi đưa về bàn giao cho nghĩa trang liệt sĩ Hướng Hóa, thấy khẩu súng AK còn nguyên vẹn, ông Lộc xin mang khẩu súng về treo ở Văn phòng hội CCB Huyện để làm kỉ niệm. Ngày hôm sau ông Lộc và ông Số đến văn phòng đều nghe tiếng súng AK nổ liên thanh dù hai ông không đi cùng nhau, 2 ông kể chuyện với đội và nhận ra đây là lời nhắc trả lại súng của chiến sĩ. Hai ông tức tốc mang súng bàn giao lại để quản trang trao trả cho chiến sĩ.
Câu chuyện thứ 9: Quy tập mộ tại Hướng Sơn và nỗi niềm người liệt sĩ
Đây là một câu chuyện nhẹ nhàng về người liệt sĩ có tên là Nguyễn Thần Đồng, quê ở Hoằng Hoá- Thanh Hoá. Chúng tôi nhận được tin báo trong một hang đá ở xã Hướng Sơn có mộ liệt sĩ nên đến quy tập, có lẽ đây là ngôi mộ chúng tôi quy tập nhanh và dễ dàng nhất bởi liệt sĩ được khâm liệm chỉnh chu và đưa vào hang đá, không chôn trong đất mà dùng đá lấp cửa miệng lại. Khi mở tấm bạt ra đã có đầy đủ thông tin liệt sĩ.
Sau khi đưa liệt sĩ về nghĩa trang liệt sĩ Hướng Hóa, một sự trùng hợp ngẫu nhiên khi ông nằm bên cạnh liệt sĩ nữ cũng tên là Gấm, trùng tên với người thương ở quê của ông mà khi gia đình kể lại chúng tôi mới biết, hồi trước ông làm cán bộ văn hóa xã, người yêu ở quê tên là Gấm, gia đình cũng có vào hương khói xin đưa liệt sĩ về nhà thờ cúng nhưng ông báo mộng muốn ở lại nghĩa trang. Vì vậy gia đình đã vào làm lễ cho ông chỉnh chu cũng như thăm viếng thường xuyên.
Kể tới đây, ông Hải mỉm cười, chắc ông muốn dùng câu chuyện nhẹ nhàng này để kết thúc cuộc trò chuyện hôm nay.
-Bác ơi, thế công việc vất vả như vậy, các bác sẽ nhận được gì khi tham gia đội quy tập ạ?
- Câu hỏi của cháu làm tôi nhớ lại câu chuyện này, tôi kể cháu nghe nhé. Có 1 lần, hội cựu chiến binh của Tập đoàn dầu khí Việt Nam lập đàn cầu siêu cho các anh hùng liệt sĩ tại nghĩa trang Đường 9 và thành cổ Quảng Trị, trong hội CCB này có hơn 50% thành viên từng tham gia trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Khi nghe tin về đội quy tập mộ Khe Sanh đã mời tôi về gặp mặt giao lưu và phỏng vấn, cô MC có đặt cho tôi câu hỏi: Động cơ nào để đội quy tập thực hiện công việc này và nguồn kinh phí từ đâu ra để các bác duy trì?
- Tôi trả lời theo 2 ý cô MC hỏi: Nếu nói về động cơ, chúng tôi là người lính ở chiến trường K về, khi đi bạn bè tôi nhiều, khi về không còn bao nhiêu, sau khi ra quân, tôi gặp lại người thân của những liệt sĩ đó, họ là người bố người mẹ, người chị người anh, người con người cháu đều mong muốn được 1 ngày tự tay thắp một nén hương trên phần mộ người thân liệt sĩ, ước mơ tuy giản dị nhưng khó thành hiện thực vì đi đánh trận ở đâu, hi sinh chỗ nào, mất ra sao không ai biết. Từ mong muốn đó chúng tôi quyết tâm thành lập đội Quy tập mộ liệt sĩ với mong muốn đưa được hài cốt liệt sĩ về an nghỉ tại nghĩa trang. Dù nhiều chiến sĩ chúng tôi không biết tên, mộ vô danh trên 80%, nhưng mọi người gần xa đến đều thắp được nén hương cho họ ấm lòng. Còn về kinh phí, ngoài lương nhà nước thì sẽ có thêm phần xin vợ (tôi cười) bởi lẽ lương cứng của chúng tôi 1.7tr/ tháng, thường xuyên đi lại xa xôi hiểm trở, nhờ vợ chuẩn bị gạo cơm mắm muối ăn dần. Chi phí lo cho liệt sĩ đã có nhà nước cấp, chúng tôi góp công góp sức nhờ hậu thuẫn gia đình là chính.
Lúc phát biểu tôi cảm động quá nên bật khóc, nhiều đồng chí cũng khóc theo, ông Minh chủ tịch hội quyết định tặng đoàn chúng tôi 30 triệu đồng để có thêm kinh phí dù không có trong kế hoạch. Sau đó ông Minh còn cho thêm 2 lần tổng là 120 triệu. Số tiền đó tôi cũng bàn với anh em tiếp tục dùng phục vụ cho liệt sĩ để mọi thứ được trọn vẹn hơn. Lúc trước kinh phí hạn hẹp thì đôi khi liệt sĩ sẽ thiếu thốn, có nải chuối thì thiếu bó hoa, đôi khi muốn thêm chút rượu, thuốc cho chiến sĩ cũng phải đắn đo, vì những thứ không thể thiếu khi đi quy tập là cờ, bao nilong, dầu gió, vải đỏ, tiểu sành, hương đèn...trước đó do phòng thương binh xã hội chi và đoàn bù thêm tiền nếu hụt. Còn bây giờ chúng tôi thống nhất ngân sách từ phòng sẽ chi thêm cho người quy tập. Từ nguồn kinh phí ông Minh hỗ trợ, chúng tôi mua được thêm giấy tờ vàng mã, một sỗ lễ vật khác dâng lên chiến sĩ.
Kể xong ông Hải cười hiền: đối với chúng tôi đó không phải là công việc để nhận thù lao, mà đó là sứ mệnh, là tinh thần của người lính.
Lúc này phía xa, trời đã nhá nhem tối, mưa tạnh hẳn chỉ còn vài giọt nước trên cây bơ rơi lõm tõm xuống mái hiên nhà. Bên khu vườn cà phê trĩu quả chín mọng, nước cũng đọng lại hằn lên như những đôi mắt long lanh đang chăm chú nghe ông kể chuyện. Tôi chào ông Hải với tâm trạng bồi hồi và cảm động, xin cuộc hẹn tiếp theo để tôi lại được đắm chìm trong những câu chuyện đời của người lính, nhân chứng giữa chiến tranh và hoà bình, nhân chứng của sự hồi sinh trên mảnh đất Khe Sanh chảo lửa năm nào.
Ghi chú: vì đây là những câu chuyện kể lại theo trí nhớ nên có thể có sai sót, tác giả rất mong nhận được thêm góp ý, chia sẻ từ quý độc giả để bài viết được hoàn chỉnh nhất, xin trân trọng cảm ơn quý độc giả đã đọc bài ạ.
Tác giả: Dương Thị Diệu Liên