Mục tiêu, tầm nhìn xây dựng phát triển tỉnh Quảng Ninh và những vấn đề đặt ra công tác giáo dục lý luận chính trị cho thế hệ trẻ

Chủ nhật, 17/11/2024 - 23:00

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra mục tiêu, tầm nhìn cho sự phát triển của đất nước đến năm 2025, 2030 và 2045. Trong đó, mục tiêu lớn nhất, cũng là khát vọng phát triển của dân tộc, đó là: Phấn đấu đến năm 2045, khi đất nước ta kỷ niệm tròn 100 năm thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Từ mục tiêu, tầm nhìn của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XV đã cụ thể hóa mục tiêu, tầm nhìn cho sự phát triển của tỉnh Quảng Ninh.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

1. MỤC TIÊU, TẦM NHÌN XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN TỈNH QUẢNG NINH ĐẾN NĂM 2030, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2045

Đến năm 2025: Xây dựng Quảng Ninh trở thành tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại, là một trong những trung tâm phát triển năng động, toàn diện của phía Bắc, đầu mối giao thông quan trọng của cả nước. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân giai đoạn 2021 - 2025 đạt khoảng 10%/năm. GRDP bình quân đầu người đến năm 2025 đạt trên 10.000 USD.

Đến năm 2030, xây dựng, phát triển Quảng Ninh là tỉnh kiểu mẫu giàu đẹp, văn minh, hiện đại; là một trong những trung tâm phát triển năng động, toàn diện; trung tâm du lịch quốc tế, trung tâm kinh tế biển, cửa ngõ của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước; duy trì tốc độ tăng trưởng của cả giai đoạn 2025 - 2030 khoảng 10%, GRDP bình quân đầu người trên 15.000 USD.

Đến năm 2045, là tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại, một trong những đầu tàu thúc đẩy phát triển kinh tế quốc gia, vùng đô thị lớn mang tầm khu vực và quốc tế; người dân có mức thu nhập tương đương các nước phát triển… Đây là những mục tiêu lớn, có ý nghĩa hết sức quan trọng, định hướng cho sự phát triển của tỉnh Quảng Ninh. Quá trình phấn đấu thực hiện các mục tiêu, tầm nhìn này được đặt trong bối cảnh quốc tế, trong nước, trong tỉnh bên cạnh những thuận lợi song cũng không ít thách thức đặt ra.

Trong những năm qua (từ đầu nhiệm kỳ đến 6 tháng đầu năm 2024), tỉnh Quảng Ninh không ngừng vươn lên, trở thành một trong những tỉnh phát triển mạnh mẽ ở phía bắc với nhiều dấu ấn nổi bật, là một trong những cực tăng trưởng, trọng điểm kinh tế, trung tâm du lịch lớn của cả nước và khu vực. Trong những năm tới, hòa bình, hợp tác, phát triển sẽ tiếp tục là xu thế chủ đạo, nhưng cạnh tranh chiến lược, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và gay gắt hơn. Hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự phụ thuộc, tác động lẫn nhau giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn ngày càng gia tăng. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, mang lại cả thời cơ và thách thức với mọi quốc gia. Kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng do tác động rộng, sâu, nhiều chiều của đại dịch COVID-19 và chu kỳ phát triển; dòng vốn đầu tư nước ngoài trên thế giới tiếp tục có sự thay đổi mạnh mẽ trong thời gian tới. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp hơn. Tình hình an ninh khu vực còn nhiều diễn biến phức tạp, tác động đến quốc phòng, an ninh. Tình trạng biến đổi khí hậu, nước biển dâng gây ra nhiều hậu quả khôn lường.

Trong nước, sau gần 40 năm đổi mới, sức mạnh tổng hợp quốc gia, tiềm lực, vai trò, vị thế, uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với vị thế quan trọng trong vùng kinh tế trọng điểm khu vực phía Bắc, có nhiều lợi thế trong đẩy mạnh liên kết vùng, đặc biệt là trong 10 năm trở lại đây, quy mô nền kinh tế đã lớn mạnh hơn, sức cạnh tranh đã cải thiện đáng kể, đà tăng trưởng liên tục trong nhiều năm liền đã tạo tiền đề, nền tảng cơ bản để tỉnh Quảng Ninh tiếp tục đổi mới, hội nhập, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh, bền vững trong những năm tiếp theo. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư phát huy hiệu quả; môi trường đầu tư tiếp tục được quan tâm cải thiện; niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và xã hội tăng lên... sẽ thúc đẩy tăng trưởng, tạo ra động lực phát triển mới. Bên cạnh đó, những mâu thuẫn, thách thức tiếp tục đặt ra cho Quảng Ninh cần được nhận thức đầy đủ và tập trung giải quyết trong thời gian tới, đó là:

(1) Mâu thuẫn giữa tiềm năng lớn chưa được giải phóng toàn diện với một số thể chế, cơ chế, chính sách còn hạn hẹp; giữa yêu cầu phát triển với các nguồn lực có hạn cả về con người và vật chất.

(2) Mâu thuẫn giữa phát triển công nghiệp, đặc biệt là khai thác than, đô thị hóa nhanh với phát triển dịch vụ, du lịch trên địa bàn.

(3) Mâu thuẫn giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ.

(4) Thách thức giữa phát triển nhanh, bền vững với gia tăng khoảng cách giàu nghèo và biến đổi khí hậu.

(5) Thách thức đồng thời phải thực hiện hai nhiệm vụ quan trọng: Vừa phải phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững; vừa phải chủ động góp phần giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ một cách thường xuyên, trực tiếp ở một địa bàn tiền tiêu của Tổ quốc trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tình hình Biển Đông tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường và sự thách thức của những hình thái phức tạp an ninh phi truyền thống. Để tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, đặt ra yêu cầu cho cả hệ thống chính trị những yêu cầu rất nặng nề, đó là:

- Phải thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; xây dựng chính quyền liêm chính, kiến tạo phát triển, phục vụ người dân và doanh nghiệp, hoạt động hiệu lực, hiệu quả;

- Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng, ổn định, kế thừa, đổi mới và phát triển giữa các thế hệ cán bộ ở từng cấp.

- Phát huy dân chủ, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố niềm tin của Nhân dân; khơi dậy và phát huy mạnh mẽ truyền thống cách mạng, văn hóa, sự năng động và khát vọng đổi mới, sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường, vượt lên mạnh mẽ và bền vững của nhân dân các dân tộc tỉnh Quảng Ninh. Để xây dựng đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ hết sức nặng nề của các mục tiêu, tầm nhìn trên đây, một trong những nhiệm vụ đặt ra đó là phải thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên, nhất là thế hệ trẻ.

2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO CÔNG TÁC GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN VÀ THẾ HỆ TRẺ HIỆN NAY.

Một là, vấn đề đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục lý luận chính trị

Đây là giải pháp đầu tiên đóng vai trò quyết định chất lượng và hiệu quả của công tác giáo dục, bồi dưỡng LLCT. Theo quan điểm của Đại hội XIII: “Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo hướng khoa học, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn”(6) Như vậy, với 4 phương châm: khoa học, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn, có thể hiểu, nếu tính khoa học nhằm đảm bảo sự đúng đắn thì tính sáng tạo chính là hướng đến sự đột phá; tính hiện đại nhằm đảm bảo sự mới mẻ, cập nhật thì gắn lý luận với thực tiễn là để những vấn đề lý luận luôn hài hòa với thực tiễn cuộc sống, tránh lối lý luận suông, xa rời thực tiễn cũng như tránh thực tiễn thuần túy, khô khan, không có có lý luận. Những định hướng nêu trên vừa nhằm khắc phục những hạn chế cả về mặt nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị hiện nay, đồng thời đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn đất nước qua 35 đổi mới với nhiều thay đổi mang tính đột phá so với trước kia. Đòi hỏi nội dung, chương trình giáo dục, bồi dưỡng LLCT phải có những điều chỉnh, bổ sung, cập nhật cho phù hợp với tình hình mới. Cùng với đó, trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phương pháp giáo dục, bồi dưỡng LLCT cũng cần được đổi mới theo hướng hiện đại, sáng tạo, phát huy tối đa vai trò của người học. Như vậy, công tác giáo dục LLCT mới ngày càng đi vào thực chất và hiệu quả hơn. Ngoài việc đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp nói chung, Đại hội XIII cũng nhấn mạnh đến việc không ngừng bồi dưỡng LLCT, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt; khắc phục lối suy nghĩ và làm việc xáo mòn, lạc hậu; khắc phục tình trạng chỉ coi trọng công tác đào tạo mà xem nhẹ công tác bồi dưỡng: “đưa việc bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp đi vào nề nếp, nâng cao chất lượng, hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng” (7). Trên cơ sở đó, yêu cầu giảng viên chủ động cập nhật các chủ trương, nghị quyết và kiến thức mới vào bài giảng cho phù hợp với thực tiễn hiện nay.

Hai là, vấn đề quản lý việc học tập, nghiên cứu lý luận chính trị gắn với rèn luyện, tu dưỡng; khắc phục tình trạng lười học, ngại học lý luận chính trị đối với thế hệ trẻ

Trong những năm qua, thực hiện bám sát Nghị quyết Đại hội XIII và thực hiện Quyết định số 587/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giai đoạn 2019 - 2030. Các trường chính trị trong hệ thống đã đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục LLCT, nhất là tăng cường quản lý quá trình học tập gắn với quá trình rèn luyện, tu dưỡng của học viên và đặc biệt quan tâm tới đội ngũ cán bộ, đảng viên trẻ. Điều này đã khắc phục tính một chiều của quá trình giáo dục LLCT theo lối truyền thống trước đây - chủ yếu chú trọng tới truyền thụ kiến thức, ít quan tâm đến kỹ năng, thái độ của người học. Đồng thời khắc phục tình trạng buông lỏng quản lý, chưa thường xuyên quan tâm đến việc rèn luyện phẩm chất chính trị, tu dưỡng đạo đức, lối sống; học hình thức, đối phó, chạy theo bằng cấp, không thực sự hiệu quả. Đại hội XIII nhấn mạnh: “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa học tập lý luận với rèn luyện, thử thách cán bộ trong thực tiễn để năng cao bản lĩnh chính trị”(8) và cũng đề ra việc gắn trách nhiệm của công tác giáo dục LLCT với khắc phục triệt để bệnh lười học, ngại học lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên - một trong những biểu hiện của tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII (năm 2016).

Thực tiễn cho thấy, khi công tác quản lý quá trình học tập, rèn luyện, tu dưỡng bị buông lỏng tất yếu dẫn đến không ít cán bộ, đảng viên nảy sinh tâm lý lười học, học hình thức, đối phó, qua loa, “học cho có” vì bằng cấp, chứng chỉ để bổ nhiệm, luân chuyển, nâng ngạch... Việc gắn trách nhiệm của công tác giáo dục LLCT với việc khắc phục triệt để bệnh lười học, ngại học LLCT của cán bộ, đảng viên là đòi hỏi cấp bách của thực tiễn: xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên “vừa hồng vừa chuyên” trong tình hình mới.

Ba là, vấn đề củng cố, nâng cao phẩm chất, năng lực, sự tâm huyết, yêu nghề của đội ngũ giảng viên, báo cáo viên LLCT và hiệu quả hoạt động của các trường chính trị

Tại Đại hội XIII, Đảng ta cũng nhấn mạnh đến việc phải: “tập trung xây dựng, củng cố, thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ giảng viên chính trị, báo cáo viên”, đồng thời “kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các trường chính trị”. Có thể nói, nếu nội dung, chương trình, phương pháp được đổi mới mà bản thân mỗi giảng viên, báo cáo viên không được và không tự đổi mới, nâng cao trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức, năng lực nghề nghiệp thì quá trình đổi mới cũng chỉ mang tính “nửa vời”. Giảng viên, báo cáo viên chính là “nhạc trưởng” trong thực hiện nội dung, chương trình, phương pháp, vì thế, nếu “người chỉ huy dàn nhạc” không “làm mới” được chính mình thông qua không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ LLCT, phẩm chất đạo đức, tác phong nghề nghiệp... thì rất khó đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công tác giáo dục LLCT.

Hệ thống các cơ sở đào tạo LLCT ở nước ta có thể nói là khá phong phú. Ngoài các học viện, nhà trường có cơ sở đào tạo LLCT, thì các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều có trường chính trị; một số bộ, ban ngành cũng có các trung tâm đào tạo LLCT. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của các trường chính trị nhìn chung còn chưa đồng đều. Do đó, để tăng cường công tác giáo dục, bồi dưỡng LLCT không thể không quan tâm đến kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng - điều kiện đảm bảo, cần thiết cho chất lượng của công tác giáo dục LLCT. Nhằm thực hiện có hiệu quả tinh thần của Đại hội XIII, trước mắt, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nói chung, trường chính trị nói riêng cần tiến hành đổi mới đồng bộ từ mô hình, cơ chế hoạt động đến đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật; chú trọng phát triển đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý... Có thể nhận thấy, tiếp nối tinh thần từ các kỳ Đại hội Đảng trước đây, Đại hội XIII đã đề cập một cách toàn diện, sâu sắc, cụ thể đến vấn đề giáo dục, bồi dưỡng LLCT, từ đánh giá những kết quả đạt được cùng hạn chế, bất cập đến phương hướng, giải pháp nhằm đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Điều đó thể hiện bước phát triển của Đảng không chỉ trong nhận thức về tầm quan trọng của công tác giáo dục, bồi dưỡng LLCT đối với xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong tình hình mới, mà còn là những tư duy mới trong lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác giáo dục LLCT trong thời gian tới. Đây chính là một trong những giải pháp cơ bản, quan trọng nhằm góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên “luôn vững vàng trước những khó khăn, thách thức và không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng”, “có ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa” và nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên”.

Bốn là: Đề cao và phát huy vài trò, trách nhiệm Trường Đào tạo cán bộ Nguyễn Văn Cừ đối với công tác giáo dục lý luận chính trị cho thế hệ trẻ trên địa bàn tỉnh

Được xác định là đơn vị duy nhất ở cấp tỉnh có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là về lý luận chính trị. Chất lượng giảng dạy, quản lý của Nhà trường có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành, nâng cao bản lĩnh chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở, cấp phòng và công chức, viên chức. Do đó, Trường Đào tạo cán bộ Nguyễn Văn Cừ cần xác định rõ sứ mệnh của mình, triển khai đồng bộ các giải pháp trong quản trị. Trong đó, cần quan tâm một số vấn đề:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, viên chức, người lao động về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác giáo dục lý luận chính trị, đặc biệt đối với thế hệ trẻ từ đó nêu cao trách nhiệm trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Tiếp tục giáo dục, quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và tinh thần của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Theo đó, quy định việc học tập lý luận chính trị là nghĩa vụ và phải được quy định thành chế độ để mọi người tự giác thực hiện nghiêm túc; có kế hoạch học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận bắt buộc hằng năm đối với cán bộ, đảng viên gắn với chức danh, với nghề nghiệp, với nhiệm vụ cụ thể của cơ quan, đơn vị, yêu cầu của địa phương.

Gắn trách nhiệm đội ngũ cán bộ, đảng viên trẻ với việc tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; Là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, trong đó lực lượng tuyên giáo các cấp là nòng cốt; Là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp, của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu. Theo Nghị quyết, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên cơ sở quán triệt sâu sắc, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam, trước hết là trong xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thể chế, nguyên tắc tổ chức hoạt động của toàn hệ thống chính trị…

Thứ hai, thường xuyên quan tâm chỉ đạo đổi mới công tác nghiên cứu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng để cập nhật đưa vào bài giảng, các chương trình đào tạo, bồi dưỡng. Qua đó, làm sáng tỏ những thành tựu, bài học kinh nghiệm trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức viên chức của tỉnh có bản lĩnh chính trị vững vàng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, nguy cơ “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” trong nội bộ, củng cố niềm tin vào con đường cách mạng mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Đặc biệt quan tâm đến giáo dục LLCT cho cán bộ trẻ, có lý tưởng sống lành mạnh, không thụ động, trông chờ ý lại, phải ý chí tự lực tự cường vươn lên.

Thứ ba, chú trọng bồi dưỡng, thấm nhuần những lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”, để không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm; rèn luyện bản lĩnh chính trị, trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; gắn việc học tập, giảng dạy lý luận chính trị với thực tiễn công tác hằng ngày. Trong mọi mặt công tác, gắn đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 05- CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII với việc tự học, tự nghiên cứu; với tích cực, chủ động đấu tranh, phê phán với các quan điểm sai trái, thù địch để làm thất bại âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính trị.

Thứ tư, chủ động triển khai thực hiện, đề xuất xây dựng đội ngũ giảng viên có chất lượng, có kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn, có phương pháp giảng dạy phù hợp, tâm huyết với nghề là việc quan tâm xây dựng cơ chế, chính sách để thu hút đội ngũ giảng viên kiêm chức tham gia giảng dạy và truyền đạt tại các cơ sở bồi dưỡng lý luận chính trị; quan tâm tạo điều kiện cử giảng viên đi học nhằm nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn, trang bị kiến thức chuyên sâu về kinh điển Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, xây dựng kế hoạch đưa giảng viên đi nghiên cứu ở cơ sở, ký kết chương trình phối hợp công tác với các địa phương, thông qua đó giúp giảng viên nắm bắt thực tiễn công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể ở cơ sở; tổng kết một số phong trào, mô hình điển hình tiên tiến trong các hoạt động của địa phương phục vụ cho công tác giảng dạy lý luận chính trị, đáp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của nhà trường trong tình hình mới.

Thứ năm, tiếp tục đổi mới hơn nữa phương thức tổ chức và phương pháp giảng dạy lý luận chính trị, thực hiện quá trình tương tác giữa thầy - trò để cho người học được quyền thảo luận, tranh luận, vận dụng lý luận giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra… để mỗi giờ học lý luận chính trị đều trở nên sinh động, hấp dẫn lôi cuốn người học... Kiên quyết khắc phục lối dạy “độc thoại”, thông báo thông tin một chiều, nặng về lý thuyết, áp đặt thụ động, máy móc lý luận xa rời thực tiễn, không phát huy được tính tích cực sáng tạo của người học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của đất nước.

Thứ sáu, tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục lý luận chính trị, lấy kết quả học tập lý luận chính trị làm thước đo phẩm chất, năng lực, phân loại của cán bộ, đảng viên nói chung, đội ngũ giảng viên nói riêng. Cần tăng cường kiểm tra và quản lý chặt chẽ chất lượng dạy và học lý luận chính trị bảo đảm thực chất, khách quan, hiệu quả thiết thực trong học tập lý luận chính trị. Thường xuyên biểu dương những tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên gương mẫu thực hiện nghiêm, chấp hành tốt việc học tập, nghiên cứu; mặt khác góp ý, phê bình nghiêm khắc đối với những cán bộ, đảng viên có biểu hiện lơ là, chưa nghiêm túc trong học tập lý luận chính trị, chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Căn cứ vào ý thức, thái độ, trách nhiệm và kết quả học tập lý luận chính trị để đánh giá, nhận xét, xếp loại, phân loại cán bộ, đảng viên và bình xét thi đua khen thưởng hằng năm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Với kết quả bước đầu đã đạt được, tin tưởng rằng trong những năm tiếp theo, dưới sự đạo của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Ban Thường vụ tỉnh ủy, sự phối hợp có hiệu quả của các tường chính trị tỉnh bạn, các địa phương, đơn vị, sở ban ngành. Sự chủ động, quyết liệt trong triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, đổi mới nâng cao chất lượng giảng dạy và giáo dục LLCT cho cán bộ đảng viên, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng Trường Chính trị chuẩn trong thời gian tới./.

-------------------------------------------------------------------------- TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.II, tr.170, 170, 172, 168, 233, 235, 235-236, 237.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2015.

3. Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XV.

4. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.

5. Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị, về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới

Th.s Phạm Thu Phương - Trường Đào tạo cán bộ Nguyễn Văn Cừ