Một số vấn đề chung về công tác tư tưởng của Đảng
Tư tưởng là hình thức tồn tại của ý thức con người, sự kết tinh của quá trình nhận thức, tư duy, bao gồm các quan niệm, quan điểm, chủ kiến, dự định của con người về các sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh...
Công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính đảng nhằm xây dựng, phát triển, hoàn thiện hệ tư tưởng, phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng vào quần chúng, cổ vũ, động viên, lôi cuốn, thúc đẩy quần chúng có hành động tích cực và sáng tạo để thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Công tác tư tưởng của Đảng có ba nội dung chủ yếu: công tác lý luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ động.
- Công tác lý luận gồm nghiên cứu lý luận và giáo dục lý luận. Nghiên cứu lý luận nhằm hướng đến mục tiêu xây dựng, phát triển lý luận làm cơ sở cho việc xây dựng đường lối chung và xác định nhiệm vụ cách mạng trong mỗi giai đoạn cụ thể. Giáo dục lý luận là hoạt động có mục đích, có tổ chức, theo chương trình, kế hoạch nhằm nâng cao trình độ lý luận của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
- Công tác tuyên truyền là hoạt động phổ biến truyền bá các nguyên lý lý luận, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng vào quần chúng; tạo sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội.
- Công tác cổ động là hoạt động cổ vũ, động viên trực tiếp và gián tiếp nhằm thúc đẩy quần chúng tham gia các hoạt động xã hội cụ thể, thực hiện chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng.
Công tác tư tưởng có vai trò quan trọng xuất phần từ tầm quan trọng của lý luận đối với sự nghiệp cách mạng và việc đưa lý luận vào quần chúng. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là hành động tự giác của hàng triệu quần chúng. Đảng thông qua công tác tư tưởng để tạo nên sự tự giác trong hành động của quần chúng. Công tác tư tưởng tạo nên sự thống nhất ý chí và hành động, tạo nên sức mạnh chính trị - tinh thần to lớn trong Đảng và toàn xã hội, góp phần tạo nên thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Công tác tư tưởng là một bộ phận cốt lõi của công tác xây dựng Đảng, có vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra sự thống nhất về tư tưởng, ý chí và hành động trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng đến công tác tư tưởng, coi đây là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên nhằm truyền bá, phổ biến hệ tư tưởng cách mạng trong xã hội, khơi dậy tinh thần yêu nước, thúc đẩy các tầng lớp nhân dân hành động tích cực và sáng tạo để thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương.
Công tác tư tưởng là một trong những hoạt động quan trọng nhất của đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm xác lập, phát triển hệ thống tư tưởng xã hội chủ nghĩa, hình thành niềm tin, định hướng giá trị, xây dựng thế giới quan khoa học cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong toàn xã hội, thúc đẩy mọi người hành động tích cực, sáng tạo, thực hiện thắng lợi mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 01/8/2007 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới nhận định: “Công tác tư tưởng, lý luận là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng; là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị của chế độ, tuyên truyền, giáo dục, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, khẳng định và nâng cao vai trò tiên phong của Đảng về chính trị, lý luận, trí tuệ, văn hóa và đạo đức; thể hiện vai trò đi trước, mở đường trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.[1]
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng bổ sung và nhấn mạnh một số quan điểm chỉ đạo công tác tư tưởng: Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải “kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[2]; “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hiệp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”[3]. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động. Đặc biệt, kiên định đi đôi với vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác nghiên cứu lý luận chính trị - một bộ phận quan trọng của công tác tư tưởng; Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”[4].
Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng của Đảng trong tình hình hiện nay
Thời gian vừa qua, chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng của Đảng được nâng lên rõ rệt. Công tác tư tưởng được coi trọng, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tích cực đổi mới về nội dung và phương pháp học tập, tuyên truyền, tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chủ động đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; tăng cường phòng ngừa, đấu tranh phê phán, ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Song, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số hạn chế như chậm khắc phục tình trạng lý luận thiếu sắc bén, thiếu thuyết phục; hoạt động đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phòng, chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ còn chưa phát huy hết sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, hiệu quả chưa cao; chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị còn nhiều điểm hạn chế; phương pháp giảng dạy, học tập lý luận chính trị chưa phát huy tối ưu tính tích cực của người học.
Thế giới ngày nay đang trải qua những biến động phức tạp, khó lường. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng với quá trình toàn cầu hóa đang chi phối mạnh mẽ mọi mặt đời sống của nhân loại, đem đến nhiều thay đổi vượt bậc về chất lượng lao động và sản xuất, chất lượng cuộc sống, tạo ra thời cơ phát triển cho các nước, đi kèm nguy cơ tụt hậu nếu không kịp thời nắm bắt. Những cuộc xung đột dân tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh kinh tế, chiến tranh mạng diễn ra theo hình thức mới, tinh vi và gay gắt. Chủ nghĩa cường quyền, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, chủ nghĩa dân túy tác động mạnh đến quan hệ quốc tế. Vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và an ninh phi truyền thống như an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh tài chính, an ninh mạng… đặt ra nhiều thách thức trong việc ứng phó. Những vấn đề này đang gây nhiều bức xúc, trở ngại cho việc tìm kiếm, duy trì hòa bình, ổn định trong hợp tác và phát triển bền vững giữa các quốc gia, dân tộc trên phạm vi toàn thế giới.
Sau hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; văn hóa, xã hội tiếp tục phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có bước đột phá; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh, độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế, trở thành một thành viên tích cực, có trách nhiệm trong các hoạt động của cộng đồng quốc tế. Việt Nam đang thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, từng bước ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và chế độ tăng lên.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn đang đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức, nguy cơ, như chệch hướng xã hội chủ nghĩa; sự tụt hậu xa hơn về kinh tế; nạn tham nhũng, lãng phí; sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; sự phân cực giàu nghèo; mặt trái của cơ chế thị trường; tình trạng ô nhiễm môi trường... Những vấn đề này đã và đang ảnh hưởng, tác động một cách tiêu cực đến chất lượng của công tác tư tưởng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta đã xác định phải coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng, nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội; “tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểụ hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”[5]. Thời gian tới, chúng ta cần tập trung thực hiện có hiệu quả những giải pháp sau:
Một là, luôn đặt công tác tư tưởng ở vị trí quan trọng hàng đầu. Tư tưởng dẫn đầu, giáo dục tư tưởng và lãnh đạo tư tưởng là việc quan trọng nhất của Đảng, do vậy, Đảng cần quan tâm đến giáo dục tư tưởng và lãnh đạo quá trình tư tưởng trong Đảng và trong xã hội, kiên quyết chống việc xem nhẹ tư tưởng nhằm nâng cao tư tưởng và trình độ chính trị cho cán bộ, đảng viên theo đúng quan điểm và lập trường vô sản. Trong tổ chức thực hiện, công tác tư tưởng phải đi trước một bước, không ngừng đổi mới để phù hợp với những điều kiện cụ thể của hoàn cảnh, đối tượng, nâng cao hiệu quả, phục vụ cho sự nghiệp chung của cách mạng.
Hai là, công tác tư tưởng phải hướng đến mục tiêu tăng cường sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Ý thức tư tưởng là yếu tố đầu tiên tạo nên quyết tâm của người cách mạng, là cơ sở để có hành động cách mạng đúng đắn. Sự thống nhất về tư tưởng và hành động là nguồn sức mạnh to lớn của Đảng. Ngược lại, nếu tư tưởng và hành động không thống nhất, “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, thì không thể lãnh đạo được Nhân dân, không làm được cách mạng.
Ba là, tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Công tác tư tưởng phải coi trọng cả việc tuyên truyền, giáo dục ý thức, nâng cao cảnh giác cách mạng phải gắn với nhận diện, vạch trần các thủ đoạn phá hoại về tư tưởng, góp phần làm thất bại mọi âm mưu, hành động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng phải thực hiện trên cơ sở quán triệt sâu sắc, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam trong thời đại ngày nay, trước hết là trong xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thể chế, nguyên tắc tổ chức hoạt động của toàn hệ thống chính trị. Nâng cao khả năng tự phòng, chống của cán bộ, đảng viên và Nhân dân trước âm mưu, thủ đoạn và hoạt động của các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị và phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và xã hội. Kết hợp chặt chẽ giữa vận động, giáo dục, thuyết phục với kiên quyết xử lý nghiêm minh theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với các đối tượng vi phạm. Thông qua việc đẩy mạnh học tập, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, công tác tư tưởng sẽ giúp việc nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa nâng lên, nhận biết tích cực các dấu hiệu, âm mưu của các lực lượng chống đối, phá hoại, cơ hội chính trị.
Bốn là, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Công tác nghiên cứu lý luận phải được thực hiện song hành với công tác tổng kết thực tiễn; kết quả nghiên cứu lý luận phải gắn với thực tiễn, cung cấp các luận cứ khoa học cho thực tiễn xây dựng đất nước, bổ sung và phát triển đường lối đổi mới của Đảng. Công tác tư tưởng phải xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, bám sát thực tiễn cuộc sống, phản ánh chân thực và luôn song hành cùng mọi hoạt động của đời sống xã hội; phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, nhất là thực tiễn từ cơ sở; nhạy bén với những chuyển biến, thay đổi nhanh chóng và phức tạp của tình hình, để kịp thời tham mưu, đề xuất cấp ủy lãnh đạo, xử lý các tình huống nảy sinh, định hướng tư tưởng, dư luận xã hội, đảm bảo tính thuyết phục và đáp ứng nhu cầu thông tin của Nhân dân.
Năm là, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Cán bộ tuyên giáo là “chiến sĩ tiên phong” của Đảng trên mặt trận tư tưởng. Thông qua công việc của cán bộ tuyên giáo, Đảng bồi dưỡng nâng cao nhận thức, lý tưởng, lẽ sống; khẳng định niềm tin, định hướng giá trị và cổ vũ hành động cách mạng cho cán bộ, đảng viên, Nhân dân. Vì vậy, phải xây dựng cho được đội ngũ những người làm công tác tuyên giáo, rất bản lĩnh, kiên cường, trí tuệ, làm một cách có nghệ thuật, có phương thức hoạt động khoa học, phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan... Cần quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tuyên giáo để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới hiện nay; tuyệt đối trung thành, kiên định, vững vàng, biết cách tổ chức công việc, có dũng khí đấu tranh, có đủ trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, phải nói được, làm được, thuyết phục được, không để bị mua chuộc bởi các thế lực xấu, thù địch. Phương pháp phải dân chủ, chân thành, không thể gò ép, áp đặt, mệnh lệnh; phải rất tinh tế, đi vào lòng người.
Sáu là, phát huy cao độ vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên trên mặt trận tư tưởng. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tích cực tham gia làm công tác tư tưởng, xứng đáng là những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, là người gieo niềm tin của Nhân dân đối với Đảng dù ở bất cứ hoàn cảnh nào. Trước hết là tự làm công tác tư tưởng cho chính mình, đến gia đình, người thân và làm tư tưởng cho Nhân dân ở mọi lúc, mọi nơi, để nâng cao ý thức cảnh giác trước âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, chủ động ngăn ngừa, phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng bộ và Nhân dân.
Để công tác tư tưởng thật sự thuyết phục, hiệu quả, bên cạnh việc tuyên truyền, giáo dục, cổ vũ, động viên các tầng lớp nhân dân bằng lý lẽ, tâm huyết, kinh nghiệm và bằng thực tiễn cuộc sống, những người làm công tác tư tưởng phải chú trọng giáo dục bằng nêu gương, nói đi đôi với làm, nói được, làm được, để tạo sự tin cậy của Nhân dân đối với Đảng, bởi “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”[6]./.
ThS. Huỳnh Thị Nhẹ
[1]Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Hệ thống tư liệu – Văn kiện Đảng
[2]Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, t. I, tr 109
[3]Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, t. I, tr 110
[4]Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, t. I, tr 110
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, t. I, tr 183
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, t.1, tr.284
Giảng viên Trường Chính trị tỉnh Tây Ninh