1. Nhận diện quan điểm sai trái: "Đảng đưa dân tộc bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là thiếu tầm vóc, sai tầm nhìn, không tự tin"
Sự thâm thù của các thế lực thù địch bắt nguồn từ thực tế rằng, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên những kỳ tích lịch sử vĩ đại; đó là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu"; Đại thắng mùa Xuân 1975 với tầm vóc lịch sử vẻ vang như một Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa... Hơn thế, trải qua 40 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã không ngừng nỗ lực đưa đất nước đổi mới toàn diện, mạnh mẽ. Nhờ đó, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ ngơi, tiềm lực, uy tín và vị thế quốc tế to lớn như ngày nay. Tất cả điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan cho phép Đảng ta khẳng định thời cơ, vận hội đã đến, nhân dân ta đủ các điều kiện để bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Vì lẽ đó, Đảng ta đã xác định "Đại hội XIV là dấu mốc đặc biệt quan trọng trên con đường phát triển của đất nước… vững vàng bước vào kỷ nguyên phát triển mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam"[1], các thế lực thù địch đã tung các luận điệu chống phá, cho rằng Việt Nam chưa đủ điều kiện để bước vào kỷ nguyên phát triển vươn mình (?!). Chúng đã không hiểu hoặc cố tình không hiểu rằng Đảng định vị "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam" là dựa chắc vào cơ sở lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.Thế nhưng, ở bên kia chiến tuyến, những người có quan điểm đối lập với Đảng ta đã không nghĩ như vậy. Họ đã và đang tìm mọi cách để ngăn cản nhân dân ta bước vào kỷ nguyên phát triển mới bằng việc cố tình hạ thấp uy tín, vị thế và vai trò lãnh đạo của Đảng.
Để phủ nhận vai trò cầm quyền, lãnh đạo của Đảng ta, chúng đã không từ một thủ đoạn nào, trong đó triệt để sử dụng mạng xã hội để đăng tải, tán phát quan điểm sai trái, thù địch trên các diễn đàn, cho rằng "tinh gọn bộ máy" và "thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp" chỉ là hành động mang tính "thời vụ, nửa vời", thực chất vẫn là "giảm chỗ này, phình ra ở chỗ khác", là "cuộc đấu đá nội bộ"…. Đây là những luận điệu hoàn toàn sai trái nhằm "đâm bị thóc, chọc bị gạo", "đổ thêm dầu vào lửa" để chống phá Đảng ta, cần phải nhận diện, phát hiện đúng âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; đặc biệt đề cao cảnh giác và kiên quyết đấu tranh với các loại quan điểm này trước, trong và sau Đại hội XIV của Đảng ta. Nổi lên hiện nay là việc các thế lực thù địch, phản động, cơ hội và bất mãn chính trị tập trung vào chống phá trên các khía cạnh:
Thứ nhất, về lý luận, xuyên tạc quan điểm của Đảng về "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam", cho rằng quan điểm này là không có cơ sở lý luận, thực tiễn, "hoàn toàn mang tính chủ quan, áp đặt của Tổng Bí thư Tô Lâm", "là sự nóng vội, đốt cháy giai đoạn", hoàn toàn không dựa trên cơ sở lý luận khoa học. Để bôi đen quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về kỷ nguyên mới, các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc, phủ nhận thành tựu, kết quả mà nhân dân ta đạt được qua 40 năm Đảng lãnh đạo công cuộc đối mới đất nước. Từ đó, cho rằng "Đảng bịa ra kết quả đổi mới để lừa gạt nhân dân".
Thứ hai, về thực tiễn, các thế lực thù địch tung tin sai trái rằng, việc xác định mục tiêu, động lực và thể hiện quyết tâm chính trị để đưa đất nước bước vào "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam" là ảo tưởng, hoang đường; không xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của Việt Nam mà là của toàn Đảng, đó là ý kiến chủ quan, áp đặt. Với sự lập luận chủ quan, duy ý chí, "chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng", các thế lực thù địch phủ nhận tính kế thừa của Đảng ta, cho rằng thuật ngữ "kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam" là sự "copy lý luận của nước ngoài: hoàn toàn không có sự kế thừa, bổ sung, phát triển sáng tạo các kỷ nguyên trước cùng như bịa đặt ra thành quả của cách mạng Việt Nam, các cơ hội quốc tế để lừa bịp nhân dân ta
Thứ ba, về mục tiêu chính trị, các thế lực thù địch xuyên tạc rằng Đảng "vẽ ra tương lai với những lời hứa hão để lừa mỵ nhân dân, đó là cái bánh vẽ, không có thật". Từ đó, Đảng áp đặt các biện pháp mang tính chủ quan, hoàn toàn duy ý chí; không có tầm nhìn xa, trông rộng; nên quan điểm của Đảng không thấu tình, đạt lý, không vì nước vì dân mà chỉ vì "nhóm lợi ích của Đảng". Vì vậy, Đảng đã sai lầm trong chỉ đạo, ảo tưởng khi triển khai thực hiện các định hướng chiến lược trong "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam", từ đó, chúng kêu gọi nhân dân không nên tin theo Đảng; phải kiên quyết hành động quyết liệt để chống lại Đảng; bởi vì "Nếu Đảng tiếp tục đưa nhân dân bước vào "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam", thì cái kết sẽ lặp lại "vết xe đổ của Liên Xô" …
2. Những luận cứ đấu tranh phản bác luận điệu sai trái về việc "Đảng đưa dân tộc bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là thiếu tầm vóc, sai tầm nhìn, không tự tin"
Đại hội lần thứ XIV của Đảng là dấu mốc quan trọng, mở đầu kỷ nguyên phát triển mới - "Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam". Đây chính là thời khắc quan trọng của cả dân tộc và cũng chính là thông điệp của Đảng Cộng sản Việt Nam muốn gửi đến toàn thể quốc dân, đồng bào cả nước và bạn bè quốc tế về tinh thần mới, khí thế mới, phương pháp tư duy dám nghĩ, dám làm, dám hành động, dám đổi mới, sáng tạo vì lợi ích chung để hiện thực hóa khát vọng xây dựng nước Việt Nam "hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội"[2]. Đồng thời, là cơ sở lý luận, thực tiễn sinh động để đấu tranh bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch chống phá Đảng ta.
Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 10 (khóa XIII), lần đầu tiên Đảng ta đã đề cập đến "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam". Từ đó đến nay, "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam" luôn được đồng chí Tô Lâm - Tổng Bí thư của Đảng nhắc đến và là một chủ đề thu hút không chỉ đối với các chính trị gia, nhà nghiên cứu, nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành, nhân dân trong nước, dư luận quốc tế mà còn là mục tiêu để các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng khai thác mạng xã hội tán phát các tin giả với nội dung xấu, độc để chống phá Đảng, Nhà nước ta; ra sức phủ nhận chủ trương, quan điểm của Đảng khi quyết định đưa nước ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Việc định danh, định vị "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam" trong bối cảnh đất nước đã thực hiện công cuộc đổi mới đất nước sau 40 năm do Đảng lãnh đạo không đơn thuần chỉ là một tuyên ngôn mà thể hiện rõ tầm nhìn, tư duy chiến lược đột phá trong nhận thức về một thời khắc lịch sử mới của dân tộc.
Dựa vào thành quả 40 năm đổi mới, Đảng ta khẳng định "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam" là bước đột phá trong tư duy và tầm nhìn chiến lược của Đảng và đây là luận cứ khoa học để đấu tranh phản bác luận điệu sai trái, cho rằng, "Đảng đưa dân tộc bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là thiếu tầm vóc, sai tầm nhìn, không tự tin". Chúng ta có thể tiếp cận và phân tích, làm rõ thêm một số nội dung chủ yếu mà ba luận điểm sai trái nêu trên đặt ra:
Một là, Đảng định vị "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam" dựa trên cơ sở lý luận - thực tiễn của 40 năm lãnh đạo công cuộc đối mới đất nước; căn cứ vào các điều kiện, tiền đề khách quan, nhân tố chủ quan đã được đặt ra, phù hợp với yêu cầu phát triển của cách mạng Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Thuật ngữ "kỷ nguyên vươn mình" biểu thị một giai đoạn phát triển đầy năng động và quyết liệt, nơi ý chí hành động, khát vọng vươn lên và tinh thần vượt qua chính mình của dân tộc được khơi dậy và phát triển mạnh mẽ nhằm hiện thực hóa các mục tiêu lớn lao trong sự nghiệp phát triển đất nước. Điều này hoàn toàn đối lập với quan điểm sai trái mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị nêu ra nhằm mục đích chống phá Đảng, Nhà nước ta; cố tình cản trở Nhân dân ta bước vào kỷ nguyên mới.
"Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam" là sự tiếp nối sáng tạo lịch sử truyền thống yêu nước, tự tin, tự chủ, tự trọng, tự lực, tự cường và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, kỷ nguyên mới là "kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội"[3] được đánh dấu bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam.Về mặt thực tiễn, lịch sử dân tộc từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đến nay đã trải qua hai kỷ nguyên phát triển quan trọng. Kỷ nguyên thứ nhất là "kỷ nguyên của độc lập, dân chủ, thống nhất và chủ nghĩa xã hội"[4] được bắt đầu từ năm 1930, khi Đảng ta ra đời, lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và những chiến công vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1946 - 1975), cùng công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954 -1975).Kỷ nguyên thứ hai đánh dấu thời kỳ "độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội"[5] (1975 - 1985), tiếp nối là giai đoạn đổi mới toàn diện, hội nhập quốc tế và phát triển đất nước (1986 - 2025), khởi nguồn từ thắng lợi vĩ đại của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, non sông thu về một mối, Bắc - Nam sum họp một nhà, mở ra thời kỳ tiến lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, tạo tiền đề vững chắc để Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước 40 năm qua giành những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Hiện nay, đất nước ta đang đứng trước thời khắc trọng đại, chuẩn bị bước vào kỷ nguyên thứ ba, "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam", được xác định khởi đầu từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Biện chứng nằm ở thực tiễn lịch sử, hoàn toàn không phải Đảng áp đặt ý chí chủ quan như các thế lực thù địch vu khống, xuyên tạc nhằm chống phá Đảng ta.
Tại sao Đảng xác định Đại hội XIV là "dốc mốc quan trọng" cho "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam"? Đây là một câu hỏi lớn đặt ra đòi hỏi phải được lý giải một cách thấu đáo, khoa học và thuyết phục bảo đảm sự thống nhất cao cả trong nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của kẻ thù.
Sau 40 năm đổi mới đất nước, tình hình chính trị, xã hội của Việt Nam có ổn định, ngày càng trở thành trung tâm thu hút đầu tư nước ngoài, trong đó, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Các lĩnh vực an sinh xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam... có nhiều chuyển biến tích cực. Thực hiện ngày càng tốt hơn chính sách đối với người có công. Tiếp tục cải thiện chính sách tiền lương. Chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục và đào tạo được nâng lên. Tuổi thọ trung bình "tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 75 tuổi năm 2025. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam thuộc nhóm nước trung bình cao của thế giới"[6]. Chất lượng nguồn nhân lực có sự cải thiện đáng kể, tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 40% (2010) lên khoảng 65% (2020). Tiềm lực khoa học, công nghệ quốc gia được tăng cường; chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam (Chỉ số GII) liên tục được cải thiện, từ vị trí thứ 59 (2016) lên thứ 42 (2020) trên 131 quốc gia và nền kinh tế, tiếp tục dẫn đầu trong nhóm quốc gia có cùng mức thu nhập trung bình thấp. Hiện thực này là khách quan, nhân dân ghi nhận và được thụ hưởng thành quả đối mới; bạn bè quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Ai đó vì bất đồng chính kiến, có thâm thù với Đảng, Nhà nước ta mà cố tình bôi đen sự thật; điều đó là vô lý, không thể chấp nhận.Việt Nam đã chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, trở thành bạn, đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Tính đến nay, "Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia; trong đó có 9 nước đối tác chiến lược toàn diện, 10 nước đối tác chiến lược và 13 nước đối tác toàn diện. Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 4/5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc"[7].Dưới sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng "đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử; độc lập, chủ quyền quốc gia và môi trường hòa bình được giữ vững, chính trị - xã hội ổn định, kinh tế ngày càng phát triển, quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc, đời sống mọi mặt của Nhân dân không ngừng được nâng cao. Vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định và nâng cao"[8]. Đây chính là nguồn lực, động lực và cơ sở để Việt Nam bắt đầu tiến vào kỷ nguyên mới - "Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam".Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm - người đứng đầu Đảng đặt ra câu hỏi: "Chúng ta đã đủ thế và lực; đã đủ ý chí và quyết tâm để bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh của dân tộc hay chưa?". Câu trả lời của Tổng Bí thư là: "Đã đủ". Như vậy, định vị "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam" không phải là "chiêu trò mị dân" (!?) hay "ý chí chủ quan, ảo tưởng của Đảng hay của Tổng Bí thư" (!?) như các luận điệu xuyên tạc, bóp méo của các thế lực thù địch, mà khẳng định đây là bước đột phá trong tư duy và tầm nhìn chiến lược của Đảng về tiền đồ, tương lai của dân tộc nhằm "tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh"[9]. Điều này hoàn toàn phù hợp với "ý Đảng, lòng dân".
Hai là, "Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam" có sự kế thừa, bổ sung, phát triển sáng tạo hai kỷ nguyên trước cùng với những thành quả to lớn mà cách mạng Việt Nam đã đạt được, các cơ hội quốc tế đem lại.
Trong "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam". Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh đây "là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao"[10]. Xuyên tạc về mục tiêu trong "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam", các thế lực thù địch phản động cho rằng đây là mục tiêu "không thực tế, không khả thi", "không thể thực hiện được" (?!). Đây là luận điệu phản động, sai trái với mục đích nhằm tạo ra sự hoài nghi, mất niềm tin trong Nhân dân, hạ thấp uy tín của Đảng.
Các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị đã "đội mũ ni che tai:" cố tình không hiểu việc xác định mục tiêu trong "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam" chính là sự tiếp nối sáng tạo mục tiêu và kế thừa những thành tựu đã đạt được trong hai kỷ nguyên trước. Trong kỷ nguyên của độc lập, dân chủ, thống nhất và chủ nghĩa xã hội (1930 - 1975) với mục tiêu trọng tâm là xóa bỏ áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến; giành độc lập dân tộc, khẳng định là một quốc gia độc lập và từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong kỷ nguyên độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đất nước đổi mới, hội nhập và phát triển (1975 - 2025), mục tiêu trọng tâm được xác định là đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, khẳng định vị thế xứng đáng của đất nước trên trường quốc tế. Những thành tựu to lớn đã đạt được của hai kỷ nguyên trước đã tạo tiền đề vững chắc - cả tinh thần lẫn vật chất - để dân tộc Việt Nam tự tin bước vào kỷ nguyên thứ ba: "Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam". Đó là sự thật, hoàn toàn không phải là ảo tưởng, hoang đường hay là chủ quan duy ý chí của Đảng như kẻ xấu đã vu khống.
Đích đến của "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam" là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Kỷ nguyên mới với những yêu cầu lịch sử mang tính đặc biệt, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị phải nỗ lực vươn lên, thực hiện thắng lợi những định hướng chiến lược, tạo ra những đột phá phát triển ở một tầm cao mới cả về trình độ và chất lượng, từng bước khẳng định vị thế quốc gia, đồng thời tạo nền tảng để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.
Ba là, Đảng chỉ rõ các định hướng chiến lược trong "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam" với các biện pháp mang tính đột phá, tầm nhìn xa, trông rộng; đặt lợi ích quốc gia, dân tộc và hạnh phúc của nhân dân lên trên hết.
Trong "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam", Tổng Bí thư Tô Lâm đã nêu ra 7 định hướng chiến lược đó là: Về cải tiến phương thức lãnh đạo của Đảng; về tăng cường tính đảng trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; về tinh gọn tổ chức bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả; về chuyển đổi số; về chống lãng phí; về cán bộ; về kinh tế. Trong kỷ nguyên vươn mình, có rất nhiều nội dung cần phải thực hiện, việc xác định 7 định hướng và trong mỗi định hướng, Tổng Bí thư đều có sự khái quát về vị trí, tầm quan trọng, chỉ ra thực trạng hạn chế và nêu ra những yêu cầu, giải pháp mang tính đột phá thể hiện tư duy và tầm nhìn của người đứng đầu Đảng.
Trong đó, "tuyệt đối không để xảy ra bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng"[11]. Thực hiện tinh gọn bộ máy, sắp xếp các cơ quan của Đảng; thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp thực sự là "hạt nhân trí tuệ", bộ "tổng tham mưu, "đội tiên phong lãnh đạo" cơ quan nhà nước bảo đảm đúng và trúng với yêu cầu, nhiệm vụ và phải bảo đảm tầm nhìn chiến lược, cơ sở khoa học, tính thực tiễn, sự thiết thực và có tính khả thi.Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với tính cách là một trong ba trụ cột quan trọng trong mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Vấn đề tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt ra cấp thiết, đòi hỏi pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần phải "liên tục được hoàn thiện để thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, phát huy dân chủ, vì con người, công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân"[12].
Thực hiện quan điểm này, cần đẩy mạnh đổi mới công tác lập pháp để kịp thời khắc phục những bất cập, tháo gỡ mâu thuẫn, hạn chế tình trạng lãng phí, thất thoát nguồn lực; đồng thời chủ động rà soát, nhận diện và xử lý những "điểm nghẽn", "nút thắt" xuất phát từ chính các quy định pháp luật.
Kỷ nguyên mới đặt ra yêu cầu bức thiết phải khắc phục triệt để những điểm nghẽn, nút thắt trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; phải xây dựng một bộ máy tinh gọn, có hiệu lực, hiệu quả và hiệu năng cao. Tập trung đẩy mạnh việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội và thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp theo hướng hoạt động thiết thực, hiệu quả, sát thực tiễn. Cần thực hiện phân cấp, phân quyền trên cơ sở nguyên tắc: địa phương tự quyết, tự làm và tự chịu trách nhiệm; đồng thời phải gắn với cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ, phân định rõ trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền cũng như giữa người đứng đầu và cán bộ, công chức trong hệ thống.
Thực hiện cuộc cách mạng chuyển đổi số đồng bộ với những cải cách căn bản, toàn diện để điều chỉnh quan hệ sản xuất, thúc đẩy động lực mới phát triển và khai thác hiệu quả các cơ hội của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trên cơ sở đi tắt đón đầu xu thế mới. Chuyển đổi số phải gắn chặt với bảo đảm an toàn, an ninh mạng nhằm tạo nền tảng vững chắc cho việc tinh gọn bộ máy và cải cách hành chính một cách thực chất và hiệu quả. Đồng thời, phát triển mạnh mẽ kinh tế số, xây dựng công dân số, tạo dựng nền tảng vững chắc cho một quốc gia số hiện đại, hội nhập và phát triển.
Cần đặc biệt chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, thử thách và sàng lọc đội ngũ cán bộ, nhất là người đứng đầu. Phải bảo đảm lựa chọn được những cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ năng lực lãnh đạo và có sức chiến đấu cao; có tinh thần chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và không ngừng đổi mới vì lợi ích chung; có khả năng cụ thể hóa, tổ chức thực hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết của Đảng, đưa đường lối của Đảng thực sự đi vào cuộc sống một cách hiệu quả, thực chất.
Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội một cách đồng bộ, hiện đại là trọng tâm ưu tiên trong chiến lược phát triển. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển công nghệ chiến lược, đẩy mạnh chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, coi khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực then chốt thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước trong kỷ nguyên mới.
Tổng Bí thư khẳng định, các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội đã khá đầy đủ, bây giờ là lúc phải hành động. Mọi cấp, mọi ngành, mọi cơ quan, đơn vị từ Trung ương đến địa phương, từ cán bộ, đảng viên đến người dân đều phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, đặt lợi ích chung lên hang đầu, không ngừng đổi mới, sáng tạo, dám đột phá và sẵn sàng hy sinh vì sự phát triển của đất nước.
Cùng với phát triển kinh tế - xã hội, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp từ ngày 1/7/2025 được xác định là một cuộc cách mạng. Thời điểm tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị đã được triển khai, đúng như đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: "Không thể chậm trễ hơn được nữa"[13]. Điều này như là một lời hứa, một cam kết của Đảng trước Nhân dân. Thống nhất từ tuyên ngôn đến hành động, với tinh thần "chỉ bàn làm, không bàn lùi, khó mấy cũng làm", "vừa chạy vừa xếp hàng"; "làm ngày không đủ thì tranh thủ làm đêm", "làm hết việc chứ không làm hết ngày", v.v..Với khí thế mới, tinh thần mới, "một ngày bằng 20 năm trong cách mạng", chúng ta cần hành động quyết liệt hơn, mạnh mẽ hơn để đến khi Đại hội lần thứ XIV của Đảng khai mạc, Đảng ta tự tin tuyên bố với quốc dân, đồng bào và bạn bè quốc tế rằng: Việt Nam chính thức bước vào một kỷ nguyên phát triển mới - "Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam". Đó là sự đáp trả đanh thép nhất đối với các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam đưa dân tộc bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là tầm nhìn mới với các quyết sánh đã được chuẩn bị công phu, nghiêm túc và hoàn toàn tự tin; chủ trương, đường lối của Đảng hoàn toàn phù hợp ý Đảng và lòng dân; phù hợp với quy luật vận động, phát triển khách quan của cách mạng Việt Nam./.
Chu Mạnh Côn - Nguyễn Việt Hưng- Nguyễn Trung Kiên
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
Tài liệu tham khảo:
- 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2024), Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng (Tài liệu sử dụng tại Đại hội Chi bộ, Đảng bộ cơ sở), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
2. Tổng Bí thư Tô Lâm, "Cơ sở định vị mục tiêu phát triển và định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới", Báo Nhân dân điện tử, ngày 01/11/2024.
- 3. Tổng Bí thư Tô Lâm, "Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc", Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 01/11/2024.
- 4. Tổng Bí thư Tô Lâm (2024), Trao đổi chuyên đề "Kỷ nguyên phát triển mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam", Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 25/11/2024.
- 5. Tổng Bí thư Tô Lâm (2024), Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18; báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 11 tháng của năm 2024, giải pháp tăng tốc phát triển kinh tế - xã hội năm 2025; tập trung các giải pháp tháo gỡ điểm nghẽn, nút thắt về thể chế phát triển.
- 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2024), Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng (Tài liệu sử dụng tại Đại hội Chi bộ, Đảng bộ cơ sở), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.13.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2024), Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng (Tài liệu sử dụng tại Đại hội Chi bộ, Đảng bộ cơ sở), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.13.
10 .Tổng Bí thư Tô Lâm, "Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc", Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 01/11/2024.
12. Tổng Bí thư Tô Lâm trao đổi chuyên đề "Kỷ nguyên phát triển mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam", Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 25/11/2024.