Nhật ký chiến trường “LÍNH CHIẾN” - Những khúc ca bi tráng của người lính tại chiến trường

Thứ hai, 12/12/2022 - 14:19

TNV - Nhân kỷ niệm 78 năm ngày truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 – 22/12/2022); CLB “Trái tim người lính Việt Nam” (chủ trì) phối hợp với Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam; Tạp chí môi trưởng và Đô thị Việt Nam và CLB “Mãi mãi tuổi 20” sẽ tổ chức giới thiệu tác phẩm nhật ký chiến trường “Lính chiến” của tác giả Phạm Hữu Thậm; đồng thời, tiếp nhận kỷ vật “Tình yêu qua chiến tranh” của 3 gia đình cựu chiến binh hiến tặng Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam.

Nhật ký chiến trường “Lính chiến” của Trung uý CCB Phạm Hữu Thậm, là một phát hiện mớitrong năm 2022 của bộ sách “Nhật ký thời chiến Việt Nam”, do Nhà văn Đặng Vương Hưng sưu tầm, biên soạn và giới thiệu; Nhà sách “Tri Thức Trẻ” liên kết với Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành.

Bìa cuốn Nhật ký chiến trường “Lính chiến” của Trung uý CCB Phạm Hữu Thậm

Tác giả Phạm Hữu Thậm sinh năm 1945 tại thôn Huề Trì, xã An Phụ, huyện Kinh Môn (nay là phường An Phụ, thị xã Kinh Môn) tỉnh Hải Dương. Nhập ngũ tháng 4 năm 1968, chỉ qua huấn luyện tân binh 2 tháng, ông đã cùng đơn vị hành quân vào chiến trường miền Nam và được biên chế vào Đại đội 14, Trung đoàn 38, Sư đoàn 2, Quân khu 5. Từ một chiến sĩ, trải qua nhiều trận đánh sống chết với kẻ thù vô cùng gan dạ và dũng cảm, anh lính Phạm Hữu Thậm đã trở thành Phó tiểu đoàn trưởng Quân sự, với quân hàm Trung uý.

Thật hiếm có một cựu chiến binh nào như Trung úy Phạm Hữu Thậm, sau hàng chục năm đã trở về với cuộc sống đời thường, mà vẫn còn được cả đơn vị cũ và chính quyền địa phương nơi cư trú đồng thuận, nhất trí cao, cùng làm văn bản đề nghị phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân: Sư đoàn 2 (Quân khu 5) có công văn đề nghị số 09/CV-ĐN, ngày 20/9/1996 gửi Bộ Quốc phòng, Cục Chính trị - Tổng cục Chính trị, Thường vụ Đảng uỷ Bộ tư lệnh Quân khu 5. Tám năm sau, từ ngày 17/8 đến ngày 20/9/2004, lần lượt thêm các văn bản để nghị của: Đảng uỷ và Uỷ ban Nhân dân xã An Phụ; Hội Cựu chiến binh xã An Phụ; Ban Chỉ huy Quân sự huyện Kinh Môn; Đại đội 14 thuộc Trung đoàn Bộ binh 38; Đảng uỷ - Chỉ huy Trung đoàn Bộ binh 38…

Theo một văn bản do Thượng tá, Sư đoàn trưởng Nguyễn Trung Thu, thay mặt Đảng uỷ và Chỉ huy Sư đoàn Bộ binh 2 ký ngày 20/9/1996, cho biết: Căn cứ báo cáo thành tích của Trung uý Phạm Hữu Thậm và các bản xác nhận của đồng đội cùng chiến đấu, trong 14 năm cầm súng, cựu chiến binh Phạm Hữu Thậm đã tham gia nhiều chiến dịch tiêu biểu, trong đó có Chiến dịch K700 Thượng Đức – Quảng Đà, tháng 3/1970; Chiến dịch giữ chốt Hòn Chiêng, tháng 5/1972... Tổng cộng, ông đã trực tiếp chiến đấu 127 trận đánh vô cùng dũng cảm, mưu trí, tiêu diệt tới 253 tên địch (trong đó có 145 lính Nguỵ, 71 lính Mỹ  và 30 lính Polpot). Phạm Hữu Thậm còn bắn rơi 19 máy bay (trong đó có 4 chiếc phản lực và 15 trực thăng). Trong chiến đấu và công tác, ông đã đựơc tặng thưởng tới 7 Huân chương Chiến công các loại, 4 lần đạt danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ’, 4 lần đạt danh hiệu “Dũng sĩ diệt máy bay” cùng nhiều danh hiệu “Chiến sĩ Thi đua” và “Chiến sĩ Quyết thắng”...

Trong đại thắng mùa xuân 1975, sau khi cùng đơn vị tham gia giải phóng thành phố Đà Nẵng, Phạm Hữu Thậm cùng đơn vị được điều đi chi viện cho lực lượng Hải quân giải phóng quần đảo Trường Sa. Ông đã xung phong cùng đồng đội bí mật lên tàu vượt biển, trực tiếp cùng bộ đội Đặc công nước tham gia các trận đánh và lần lượt giải phóng các đảo Song Tử Tây, Sơn Ca và Nam Yết. Trong đội hình chiến đấu của Đại đội Phòng không 14, Tiểu đoàn Bộ binh 4, ông đã phải chứng kiến rất nhiều đồng đội hi sinh… Khi quần đảo Trường Sa đã hoàn toàn được giải phóng, Phạm Hữu Thậm đã được giao nhiệm vụ làm Chính trị viên đảo Sơn Ca trong 3 tháng. Tiếp đó, ông đảm nhiệm trọng trách làm Đảo phó Song Tử Tây đến hết tháng 8/1976 mới vào đất liền và được điều động bổ sung về Lữ đoàn 126 của Bộ Tư lệnh Hải quân…Chưa hết, sau khi chiến tranh biên giới phía Tây Nam nổ ra, tháng 12/1978  Phạm Hữu Thậm lại được điều động đi làm nhiệm vụ quốc tế tại mặt trận Campuchia, tấn công truy kích địch tới sát biên giới Thái Lan, liên tục tham gia hàng chục trận đánh ác liệt, mãi tới tháng 7/1979 mới được lệnh rút về nước…

Văn bản đề nghị phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân cho Trung uý CCB Phạm Hữu Thậm

Tháng 1/1982, do sức khoẻ yếu, Trung uý Phạm Hữu Thậm đã được Quân đội cho nghỉ chế độ mất sức của bệnh binh. Thực ra trong chiến đấu ông đã bị thương rất nhiều lần, nhưng người làm chế độ chính sách trong đơn vị hồi đó nói: “Nếu hưởng chế độ Thương binh, thì sẽ không có chế độ bệnh binh mất sức hằng tháng nữa”. Ông đã tặc lưỡi chọn “mất sức” cho xong. Và hiện Trung uý cựu chiến binh Phạm Hữu Thậm được lĩnh khoản tiền 2.840 đồng mỗi tháng (mới được tăng thêm, trước đây chỉ hơn 2 triệu). Đó cũng là khoản tiền cả hai vợ chồng già phải chi tiêu tằn tiện, ăn uống chủ yếu là rau cháo và chữa bệnh qua ngày…

Cảm động về cuộc đời của Phạm Hữu Thậm, một nhóm các nhà văn chiến binh đã tìm về thôn Huề Trì (phường An Phụ, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương) nhiều lần, xác minh tư liệu, trò chuyện với tác giả Phạm Hữu Thậm và những người thân trong gia đình ông. Đó là một ngôi nhà 5 gian kiểu cũ, phía trước vẫn nguyên kiểu cửa bức bàn, nhưng mái đã thay bằng loại ngói tây. Theo cựu chiến binh Phạm Hữu Thậm nhớ lại, thì ngôi nhà này do ông bà nội mình để lại, đã hàng trăm năm tuổi. Đầu thế kỷ trước, khi quân Pháp đến đóng bốt ở Kinh Môn, chúng đã cho lính đến lột mái nhà ông đi làm bốt, nên nóc phải đặt lại. Do quá lâu không được tu sửa, nên ngôi nhà đã hư hại và xuống cấp nghiêm trọng. Mỗi khi trời mưa gió là bị giột tứ bề, nước chảy lênh láng. Mà nền nhà vẫn còn là nền đất, chưa có điều kiện lát gạch, nên luôn ẩm thấp và mọc đầy rêu. Thậm chí, gian buồng để thóc lúa và đồ đạc lặt vặt được xây bằng gạch thô, vẫn còn chưa trát hết vữa. Đồ đạc trong nhà không có gì đáng giá, ngoài một chiếc tivi đã cũ. Khách vào chơi, vì không có bàn ghế uống nước, ông Thậm thường rải chiếu và mời mọi người ngồi… xuống đất.

Nhà văn Đặng Vương Hưng (người viết lời tựa giới thiệu sách) cho biết: Khác với viết thư, trình độ đòi hỏi không cao, vì kể cả những người không biết chữ cũng có thể nhờ người khác viết thư hộ mình. Nhật ký thì không ai có thể viết hộ ai và đòi hỏi người viết phải có một trình độ văn hoá, khả năng diễn đạt câu chữ nhất định. Ngoài ra, người viết Nhật ký còn cần phải có cả sự bền bỉ, đều đặn, kiên trì ngày này qua ngày khác… Trước khi nhập ngũ và lên đường vào Nam chiến đấu, Trung uý cựu chiến binh Phạm Hữu Thậm chỉ có trình độ văn hoá lớp 4. Vậy ông đã thể hiện bản thảo cuốn nhật ký này như thế nào? Thật may mắn, là những ngày ở chiến trường, Phạm Hữu Thậm có thói quen ghi chép vắn tắt hoạt động của mình và anh em trong đơn vị vào một cuốn sổ tay. Khi có thời gian rảnh rỗi, ông viết bổ sung thêm nhiều chi tiết cụ thể cho những sự vật và hiện tượng mình đã chứng kiến. Đó là tư liệu vô cùng quý giá, cộng với trí nhớ “trời cho” để ông có thể hoàn thành bản thảo tác phẩm nhật ký “Lính chiến” sau này.

Nhật ký là một thể loại rất riêng tư, được viết đều đặn hàng ngày. Sổ tay nhật ký là một người bạn tâm giao, thân thiết cho người viết giãi bày, tâm sự thật nhất những chuyện buồn vui, mà họ không thể nói cùng ai… Do công việc chuyên môn và cơ duyên, nhà văn Đặng Vương Hưng đã có may mắn được đọc hàng trăm cuốn sổ tay nhật ký của các Liệt sĩ, Thương binh, Cựu chiến binh… Nhưng ông chưa thấy có tác phẩm nào, mà ngoài việc ghi ngày, tháng, năm cụ thể, lại còn thêm cả hồi mấy giờ, buổi (sáng, trưa, chiều, tối) chi tiết như với “Lính chiến”!

Nhà văn Lê Hoài Nam là một trong những người đầu tiên đọc bản thảo nhật ký “Lính chiến” cho biết: Càng về cuối lại càng hấp dẫn hơn. Nó rất xứng đáng được in thành sách! Chúng tôi có cùng cảm nhận đây không phải là chuyện văn chương, mà là chuyện đời! Những câu chữ đã vượt qua khuôn khổ của một tác phẩm văn học thông thường. Cuốn sách đã chuyển tải tới người đọc rất nhiều thông tin trung thực về những người lính đã sống và chiến đấu tại chiến trường Khu 5 trong kháng chiến chống Mỹ như thế nào. Sự trung thực đến trần trụi về cuộc sống và những trận chiến đầy máu và nước mắt: Những trận đánh kéo dài hết ngày này qua ngày khác, hết tháng này qua tháng khác và năm này qua năm khác, lần lượt hiện lên qua từng trang nhật ký đầy máu và nước mắt. Đó thật sự là những khúc ca bi tráng của người lính tại chiến trường, nhưng lại có trong “Lính chiến”. Sẽ không có một nhà văn nào hư cấu được, dù trí tưởng tượng của anh ta có phong phú tới đâu!

Có thể trong mấy chục năm qua, người đời đã tạm thời lãng quên thành tích của Trung úy Phạm Hữu Thậm. Và thậm chí chính ông cũng có thể đã lãng quên những chiến công của mình, bởi đã ở độ tuổi gần 80, theo quy luật của tạo hóa, thì nhớ nhớ quên quên cũng là chuyện bình thường. Đôi khi, người ta có thể lãng quên những chuyện buồn vui của riêng ai đó. Nhưng lịch sử và truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc thì không ai được phép quên lãng! Và dù chưa được Nhà nước phong tặng, nhưng từ lâu Trung uý Phạm Hữu Thậm đã thật sự là một Người Anh Hùng trong lòng đồng đội!

Cũng trong khuôn khổ buổi Lễ, hưởng cuộc vận động sưu tầm kỷ vật và thi viết bài mang chủ đề “Tình yêu đi qua chiến tranh” (2020 – 2025) do Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam phối hợp với CLB “Trái tim Người lính” và CLB “Mãi mãi tuổi 20” tổ chức, Tạp chí Môi trường và Đô thị Việt Nam bảo trợ truyền thôngcó 3 gia đình cựu chiến binh đã đăng ký hiến tặng kỷ vật “Tình yêu qua chiến tranh”. Đó là:

Gia đình vợ chồng Trung uý CCB Phạm Hữu Thậm và và bà Dương Thị Gái đã hiến tặng cho bảo tàng Phụ nữ Việt Nam một số kỷ vật vô giá, mà họ đã lưu giữ nhiều năm: Bút tích sổ tay, Giấy chứng nhận “Dũng sĩ diệt Mỹ”, Bản đồ tác chiến…

Gia đình vợ chồng Đại uý CCB Nguyễn Đình Độ và bà Trần Thị Huyền (đến từ Tổ dân phố số 3, P. Phúc Lợi, Q.Long Biên, TP. Hà Nội): Hiến tặng gần 20 lá thư riêng, được viết trong chiến tranh Biên giới phía Bắc (1979 – 1989).

Gia đình vợ chồng CCB Tiến sĩ Nguyễn Minh Vỹ và bà Nguyễn Thị Khi (đến từ khu tập thể Nguyễn Công Trứ, Q. Hai Bà Trưng, Hà Nội) hiến tặng Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam một số tư liệu ảnh đen trắng về chiến trường Quảng Trị và cuốn sách “Phút giây đáng nhớ” cùng một số lá thư được viết tại chiến trường Quảng Trị (1973 – 1975).

Hoàng Hà