Những thuận lợi trong nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Thứ hai, 20/10/2025 - 08:56

Tóm tắt: Nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển kinh tế thị trường (KTTT), cũng như việc tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN trong gần 40 năm qua ở Việt Nam là nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn cần thiết, quan trọng nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn ý nghĩa, định hướng sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới;

góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận của Đảng về đường lối đổi mới, lý luận về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam; đồng thời trực tiếp phục vụ cho việc xây dựng các văn kiện Đại hội lần thứ XIV của Đảng.

Từ khóa: Thuận lợi; Nghiên cứu; Vận dụng; Tư tưởng Hồ Chí Minh; Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Lúc sinh thời, phần lớn cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, đất nước vẫn chưa có hoà bình, thống nhất, vì vậy, những vấn đề về phát triển kinh tế, Người mới vạch ra trên những nét cơ bản. Bước vào thời kỳ xây dựng, nhất là trong điều kiện nền KTTT định hướng XHCN càng đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta vận dụng một cách sáng tạo, tư tưởng Hồ Chí Minh vào phát triển KTTT định hướng XHCN. Phát triển KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế chưa từng có tiền lệ trong lịch sử, do đó, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào trong phát triển KTTT định hướng XHCN nói riêng, nghiên cứu lý luận và xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam nói chung, gặp không ít những khó khăn, mò mẫm, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm, điều chỉnh, bổ sung cả về lý luận lẫn thực tiễn. Tuy nhiên, nói như vậy, không có nghĩa là việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển KTTT định hướng XHCN không có những thuận lợi. Theo chúng tôi, những thuận lợi trong nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển KTTT định hướng XHCN bao gồm:

1. Về lý luận

1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội - lý luận nền tảng để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Nhận thức và quán triệt sâu sắc nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, về phát triển kinh tế và các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng ta đã kế thừa và vận dụng sáng tạo vào phát triển KTTT định hướng XHCN vì một nước Việt Nam "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá VI tháng 3/1989, Đảng đã xác định những nguyên tắc cơ bản cần quán triệt trong quá trình đổi mới. Một trong những nguyên tắc đó là: Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả, bằng những quan niệm đúng về CNXH, với những hình thức bước đi và biện pháp thích hợp. Nguyên tắc này không chỉ đáp ứng kịp thời đòi hỏi của tình hình trong nước và quốc tế lúc bấy giờ mà còn có ý nghĩa lâu dài đối với sự nghiệp đổi mới.

Chính nhờ kiên trì mục tiêu CNXH nên qua gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã có bước phát triển rõ rệt. Nguyên nhân quan trọng nhất đưa lại thành tựu to lớn đó là: việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần nhận thức rằng, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa là công việc khó khăn phức tạp, lâu dài. Đó là cuộc đấu tranh chống lại các lực lượng phản động đang hàng ngày hàng giờ dùng trăm phương, ngàn kế tác động trực tiếp đến sự nghiệp đổi mới và hy vọng làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là việc phải khắc phục cho được những lệch lạc trong chính sách và chỉ đạo thực hiện. Đó còn là cuộc đấu tranh chống lại những nhận thức và việc làm sai trái của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ: Việt Nam đi lên CNXH là tất yếu, nhưng đó là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt, lâu dài giữa xấu và tốt, cũ và mới, lạc hậu và tiến bộ: "…Về kế hoạch xây dựng lại thành phố và làng mạc đẹp đẽ, đàng hoàng hơn trước chiến tranh. Khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế. Phát triển công tác vệ sinh, y tế. Sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân, như phát triển các trường nửa ngày học tập nửa ngày lao động. Củng cố quốc phòng. Chuẩn bị mọi việc để thống nhất Tổ quốc... Công việc trên đây là rất to lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân"[1].

1.2. Kinh tế nhiều thành phần theo tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa lý luận sâu sắc đối với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Tầm nhìn xa của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ, ngay từ năm 1953, trong tác phẩm Thường thức chính trị Người đã đến những thành phần kinh tế của nước ta vùng tự do, trong thời kỳ quá độ lên CNXH, bao gồm những thành phần như sau: Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô; Kinh tế quốc doanh, có tính chất CNXH; Các hợp tác xã, có tính chất nửa CNXH; Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (một thứ kinh tế lạc hậu); Kinh tế tư bản của tư nhân; Kinh tế tư bản quốc gia (Nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh và do Nhà nước lãnh đạo). Trong các thành phần kinh tế nêu trên, kinh tế quốc doanh là thành phần kinh tế chủ đạo, lãnh đạo, nhờ vậy tính chất kinh tế nước ta là kinh tế XHCN.

Vấn đề này được Đảng ta quán triệt trong việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986) đến nay. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII khẳng định: "Nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật…"[2].

1.3.Đảng Cộng sản Việt Nam đã có quá trình phát triển nhận thức của về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Trước Đại hội VI (1986) của Đảng, chế độ sở hữu với nhiều hình thức sở hữu đan xen, hỗn hợp và nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh khác nhau không được thừa nhận ở nước ta. Chế độ sở hữu được quy về hai hình thức chính là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Các hình thức sở hữu toàn dân, tập thể và các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa được tạo điều kiện thuận lợi để phát triển, còn các hình thức sở hữu và thành phần kinh tế khác như kinh tế cá thể, tiểu chủ,… là đối tượng cải tạo, phải thu hẹp dần và tiến tới bị thủ tiêu, xóa bỏ.

Đến Đại hội VI (1986), quan điểm nói trên đã được thay đổi một cách căn bản, khi Đảng xác định quá trình từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển hóa từ nền kinh tế còn nhiều tính chất tự cấp, tự túc thành nền kinh tế hàng hóa. Có thể nói, đây là điểm đột phá trong lý luận về mô hình phát triển. Bởi trước đó, trong các văn kiện chỉ mới nói tới việc sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, thì nay đã khẳng định là chuyển nền kinh tế tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX và X, Đảng đã hoàn thiện quan niệm về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.

Văn kiện Đại hội XIII (2021) nêu: Đó là nền KTTT hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.

Nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.

Định hướng XHCN trong KTTT ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không "hy sinh" tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng XHCN.

Từ nhận thức và lựa chọn KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không phải là sự gán ghép chủ quan giữa KTTT và CNXH, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế khách quan của phát triển KTTT, trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự khái quát, Đảng ta đúc rút kinh nghiệm phát triển KTTT thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam để đưa ra đường lối phát triển KTTT định hướng XHCN. Đường lối này thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Theo đó, đến nay, Đảng xác định:

Bản chất KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam: "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vi mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước"[3].

Mục tiêu xây dựng và phát triển KTTT định hướng XHCN là nhằm phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội nâng cao năng suất lao động xã hội, từng bước xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", "có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiên bộ phù hợp"[4]. Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII khẳng định: Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo tiền đề vững chắc cho việc xây dựng thành công và vận hành đồng bộ, thông suốt nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; góp phần huy động và phân bổ, sử dụng có hiệu quả nhất mọi nguồn lực để thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển nhanh và bền vững vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Đảng cũng đã xác định: Đặc trưng về sở hữu và thành phần kinh tế; đặc trung về cơ chế vận hành; đặc trưng về phân phối cũng như các điều kiện phát triển KTTT định hướng XHCNở Việt Nam (Điều kiện về kinh tế; điều kiện về chỉnh trị, xã hội; điều kiện về hòa bình, hợp tác khu vực và quốc tế).

Sự đổi mới và sáng tạo liên tục trong tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở kiên định, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới và không ngừng tổng kết thực tiễn trong suốt 40 năm đổi mới. Đó là "một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường"; đó là "Một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội"[5].

2. Thực tiễn phát triển KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm, Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Quy mô GDP theo giá hiện hành năm 2022 ước đạt 9,513 triệu tỷ đồng, tương đương 409 tỷ USD[6]. Quy mô GDP theo giá hiện hành năm 2023 đạt khoảng 10,22 triệu tỷ đồng, tương đương 430 tỷ USD. GDP bình quân đầu người năm 2023 theo giá hiện hành đạt khoảng 101,9 triệu đồng/người, tương đương 4.284 USD, tăng 160 USD so với năm 2022"[7].

"Cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội xét trên phương diện quan hệ sở hữu, gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài"[8].

Kim ngạch xuất khẩu không ngừng được tăng lên, đóng góp một phần quan trọng vào sự tăng trưởng GDP. Nếu năm 1986, tổng kim ngạch xuất khẩu mới đạt 789 triệu USD, thì năm 2006 xuất khẩu đã đạt trên 39 tỷ USD và kể từ sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên, năm 2023 đạt 355,5 tỷ USD. Về cơ cấu, mặt hàng xuất khẩu ngày càng phong phú, đa dạng, có nhiều nhóm hàng "chủ lực" đạt kim ngạch lớn. Nhiều mặt hàng xuất khẩu có khối lượng lớn, kim ngạch đứng thứ hạng cao trên thế giới. Nếu năm 1986 chúng ta chưa có mặt hàng nào xuất khẩu nào đạt giá trị trên 200 triệu USD thì hiện nay đã có nhiều mặt hàng vượt kim ngạch 1 tỷ USD, 5 tỷ USD"[9]. Đến nay, nước ta đã có quan hệ thương mại với 224 đối tác; đã, đang đàm phán, ký kết và thực thi 17 FTA. Việt Nam trở thành một trong những nước đi đầu khu vực trong việc hình thành các khuôn khổ hợp tác kinh tế đa phương"[10].

An sinh xã hội đạt nhiều kết quả quan trọng, nhất là trong giáo dục, y tế, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành công. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần ba lần. Đến tháng 4 năm 2022, cả nước có 5.706/8.227 xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó 663 xã đạt chuẩn nâng cao và 71 xã đạt chuẩn kiểu mẫu[11]; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô-tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại.

Nhờ kinh tế phát triển, Việt Nam có điều kiện để chăm sóc tốt hơn người có công, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc. Đời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Việt Nam hiện có khoảng 70% dân số sử dụng internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển internet cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ.

Có thể khẳng định, việc thực hiện đường lối đổi mới, phát triển nền KTTT định hướng XHCN đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: Kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố.

3. Tiếp tục quán triệt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng đặt ra các yêu cầu, nhiệm vụ:

- Thống nhất và nâng cao nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế chưa có tiền lệ trên thế giới. Trên thực tế, ở Việt Nam, xây dụng và phát triển mô hình KTTT định hướng XHCN là quá trình vừa làm, vừa rút kinh nghiệm. Do đó, nhận thức đúng, đầy đủ bản chất, mục tiêu và đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là điều kiện tiên quyết, quan trọng cho việc xây dựng và phát triển mô hình kinh tế này.

KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam; là một trong ba trụ cột phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.

- Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ những điểm nghẽn

Nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia, xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Trong quá trình chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một trong những "điểm nghẽn" chính là hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, còn chồng chéo. Đồng thời, trước yêu cầu phát triển mới, đặc biệt là tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhiều ngành, nghề mới ra đời, cần phải có môi trường pháp lý bảo đảm cho sự phát triển. Vì vậy, cần xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới. Tập trung sửa đổi những quy định pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính một cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch.

Hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ các nguồn lực, về quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, nguồn vốn đầu tư của Nhà nước để việc phân bổ các nguồn lực của Nhà nước được thực hiện theo cơ chế thị trường, thông qua đấu thầu công khai, minh bạch, có sự tham gia của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường. Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường với các hàng hóa, dịch vụ, kể cả giá các dịch vụ công cơ bản, thu hẹp giá do Nhà nước quyết định. Phát triển đồng bộ, với kết cấu hạ tầng và phương thức giao dịch hiện đại, các loại thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường khoa học - công nghệ, thị trường lao động, thị trường bất động sản để các thị trường vận hành thông suốt, kết nối thị trường trong nước với thị trường thế giới.

- Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ;nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; "đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác"[12]; kết hợp hiệu quả ngoại lực và nội lực, gắn hội nhập kinh tế quốc tể với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.

4.Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ cấp thiết, hệ trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn,điều này tạo nên những thuận lợi trong nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Khi đặt ra các yêu cầu, nhiệm vụ nêu trên, Đảng, Nhà nước ta đã thể hiện sự quan tâm, chú trọng đặc biệt cả về lý luận lẫn thực tiễn xây dựng và phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Từ đó, các nguồn lực về con người (các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, các chính khách,…), về vật lực cũng sẽ được chăm lo, đầu tư cho việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào phát triển KTTT định hướng XHCN.

Đến nay, đội ngũ các chuyên gia, các nhà nghiên cứu có trình độ và kinh nghiệm, lại được trang bị các phương pháp nghiên cứu khoa học bài bản. Do đó, đội ngũ này hoàn toàn đáp ứng được các yêu cầu về kiến thức, trình độ cũng như phương pháp để thực hiện các công trình nghiên cứu khoa học, cụ thể như công trình khoa học cấp quốc gia, chúng ta đang triển khai. Bên cạnh, các chuyên gia, các nhà nghiên cứu kinh nghiệm, hiện nay, chúng ta cũng không thiếu cácnhà khoa học còn rất trẻ, rất ham học hỏi, tìm tòi, khám phá cái mới. Với sự năng động, linh hoạt cũng như nhạy bén của tuổi trẻ, đội ngũ các nhà khoa học trẻ, nắm bắt rất nhanh các nhu cầu của xã hội để từ đó đưa ra các giải pháp đáp ứng các nhu cầu đó.

Nguồn tài liệu nghiên cứu phong phú. Hiện nay, cùng với các nguồn tài liệu từ sách, báo, internet,… thì với sự phát triển của công nghệ thông tin, việc tìm kiếm các nguồn tài liệu từ các máy tính ngày càng trở nên dễ dàng hơn với số lượng tài liệu ngày càng phong phú hơn. Ngoài ra, phần lớn các nhà khoa học trẻ có trình độ ngoại ngữ khá tốt nên bên cạnh việc nghiên cứu các nguồn tài liệu bằng tiếng Việt, đội ngũ này, sẽ khai thác tốt các nguồn tài liệu bằng tiếng nước ngoài.

Nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào phát triển KTTT định hướng XHCN nói riêng, xây dựng và phát triển KTTT định hướng XHCN Việt Nam nói chung là nội dung có ý nghĩa lý luận sâu sắc và thực tiễn phong phú, hệ trọng trong sự nghiệp đổi mới, phát triển đảm bảo định hướng XHCN. KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế chưa có tiền lệ trên thế giới. Trên thực tế, ở Việt Nam, xây dụng và phát triển mô hình KTTT định hướng XHCN là quá trình vừa làm, vừa rút kinh nghiệm. Do đó, ngân sách, tài chính đầu tư cho nghiên cứu, vận dụng sáng tạo nội dung này nhằm đảm bảo nhận thức đúng, đầy đủ bản chất, mục tiêu và đặc trưng của nền KTTT định hướng XHCN cũng cần tiếp tục được tập trung, ưu tiên đầu tư trong thời gian tới.

    Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,tập 15, tr. 617.

    Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr 102-103.

    Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tập I, tr.128.

    Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, tr.70.

    Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII: "Dự thảo Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam", Dẫn theo: https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-du-thao-bao-cao-tong-ket-mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-cong-cuoc-doi-moi-theo-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-trong-40-nam-qua-o-viet-nam-11925101609232867.htm

    Tổng cục Thống kê: "Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2022", Trang thông tin điện tử Tổng cục Thống kê, https://www.gso.gov.vn/bai-top/2022/12/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2022/

    Mai Chi: "GDP bình quân đầu người Việt Nam vượt 100 triệu đồng", https://dantri.com.vn/kinh-doanh/gdp-binh-quan-dau-nguoi-viet-nam-vuot-100-trieu-dong-20231229093332819.htm, ngày 29-12-2023

    Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 31.

    Ban Tài chính quốc tế và Chính sách hội nhập, Viện Chiến lược và Chính sách tài chính: "Những kết quả đạt được sau 30 năm đổi mới về hội nhập kinh tế quốc tế", Cổng Thông tin điện tử Bộ Tài chính, ngày 30-5-2023, https://mof.gov.vn/webcenter/portal/btcvn/pages_r/l/tin-bo-tai-chinh?dDocName=MOFUCM098068

    Nguyễn Thùy: "Những dấu ấn của thương mại Việt Nam sau hơn 35 năm đổi mới", ngày 19-12-2022, https://www.tuyengiao.vn/nhung-dau-an-cua-thuong-mai-viet-nam-sau-hon-35-nam-doi-moi-146918

    Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Báo cáo tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc triển khai thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, ngày 21-4-2022

    Đảng Cộng sàn Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr.135.

ThS. Phan Tăng Tuấn - Học viện Chính trị khu vực I