Những vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế nông nghiệp tại Kiên Giang

Thứ năm, 03/07/2025 - 00:00

Trần Đức Viên đưa ra nhận định rằng: Nông nghiệp không chỉ là lợi thế so sánh, là nguồn lực quan trọng của quốc gia, mà còn là lựa chọn rất quan trọng và cần thiết, nếu chúng ta muốn đất nước sớm “cất cánh” thì các ngành, nghề, lĩnh vực khác phát triển như thế nào đều cần và phải xoay quanh cái “trục” mang tính quyết định này, đó là nhà nước, nông thôn và nông dân [6]

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Những năm 60 các tác giả nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp, phần lớn các kết quả nghiên cứu phát hiện ra rằng những thay đổi mà có ảnh hưởng đến năng suất của nông nghiệp có tác động lớn đến những biến số vĩ mô trong đó bao gồm việc tăng trưởng kinh tế.

Từ những nghiên cứu của các chuyên gia nước ngoài ở khu vực Châu Á, hay các quốc gia thuộc Đông hay Đông Nam Á cho thấy có rất nhiều sự dịch chuyển trong mấy mươi năm qua, liên quan đến thể chế chính sách thông qua chính sách cải cách ruộng đất đối với những quốc gia thực hiện sớm vào những năm 1950, và hình thành các hình thái sản xuất nông nghiệp hợp tác xã, hợp tác tài chính, ứng dụng tiếp thị thị trường cho đến những năm 1970, 1980 sau này. Giai đoạn phát triển công nghệ và cách mạng xanh trong nông nghiệp, tập trung vào hình thái sản xuất nâng cao sản lượng, từng bước tối ưu hóa phân bón, thuốc trừ sâu, giai đoạn này diện tích nông nghiệp phần lớn sử dụng các loại giống cải tiến, hoặc có sản lượng vượt trội qua hình thức lai tạo1. Trong mô hình phát triển nông nghiệp ở các quốc gia như Trung Quốc, Trung Quốc (Đài Loan), Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên dù cùng chung xu hướng tăng sản lượng nhưng sự khác nhau đặc thù về vị trí địa lý, thổ nhưỡng, con người và chính sách nên các mô hình xây dựng cũng khác nhau [7], [8], [9].

Việc nghiên cứu, xây dựng mô hình phát triển kinh tế nông nghiệp tại Việt Nam trong bối cảnh sản xuất xanh là một trong những thách thức và có những khó khăn nhất định cho các nhà khoa học, nhà quản lý và nhà nông tại Việt Nam. Bài viết này với mục tiêu tìm hiểu và tổng quan một số đặc điểm và trình bài sơ lược về các mô hình phát triển kinh tế nông nghiệp hiện nay, nhằm cung cấp những luận cứ cần thiết giúp các nhà nghiên cứu, cơ quan quản lý, cơ quan thực thi chính sách nông nghiệp của các tỉnh thành có thêm thông tin khoa học thuộc lĩnh vực nông nghiệp.

Xác định kinh tế nông nghiệp là trụ cột, nhưng cũng đầy thách thức vì nền kinh tế nông nghiệp của Việt Nam nói chung, Kiên Giang nói riêng với quy mô vừa và nhỏ, trong thời đại công nghệ số, để đủ sức cạnh tranh cần phải xác định được những thách thức trong các lĩnh vực từ sản xuất, tiêu thụ, chính sách, quản trị…Với định hướng phát triển kinh tế xã hội xanh, phát triển nền nông nghiệp xanh trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay là hết sức quan trọng và cần thiết. Để thực hiện được mục tiêu phát triển chung của toàn xã hội nói chung và định hướng phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế của tỉnh Kiên Giang thì việc tìm hiểu đánh giá thực trạng về phát triển kinh tế hiện nay trên toàn tỉnh và trên cơ sở đó xác định đặc điểm, đặc thù và những chỉ số làm khung giá trị chung trong phát triển kinh tế nông nghiệp bền vững là vô cùng cần thiết.

Có thể dễ dàng nhận ra kinh tế nông nghiệp là trọng điểm định hướng phát triển của quốc gia từ xưa cho đến hiện tại. Xác định đúng đắn về phát triển nông nghiệp nông thôn là nền tảng vững chắc cho công tác xây dựng đường lối, chính sách, định hướng và thực hiện công tác lập kế hoạch hành động phát triển kinh tế nông nghiệp xanh phù hợp với xã hội hiện đại, đáp ứng các tiêu chí hội nhập, thích ứng biến đổi khí hậu, thay đổi và phát triển đời sống người nông dân an toàn sống và an tâm lao động và cùng chung sức xây dựng nền kinh tế xanh trong thời đại 4.0 đúng với định hướng phát triển của Việt Nam.

Bên cạnh những định hướng chính sách với một tầm cao mới trong nhận thức về phát triển nông nghiệp đặc biệt liên quan đến kinh tế nông nghiệp trong bối cảnh hiện đại, trước sự cạnh tranh khốc liệt về giá, nguồn lực lao động, vận chuyển, sản xuất, tìm đầu ra trong xúc tiến thương mại đầu tư hiện nay đang rất phức tạp, các tỉnh thành Việt Nam chưa có quy hoạch rõ nét cho từng vùng trọng điểm nông nghiệp, vì vậy trước thách thức này, việc tìm hiểu đặc điểm từng địa bàn (trong một tỉnh thành) để xác định được ưu điểm, nhược điểm và từ đó xây dựng khung giá trị phát triển kinh tế nông nghiệp cho tỉnh Kiên Giang là nhu cầu, và bằng phương pháp nghiên cứu xuyên ngành để có đánh giá toàn diện nhất, mới nhất và hiệu quả nhất khi đưa ra sản phẩm ứng dụng đầu ra cho tỉnh Kiên Giang, để đừng bỏ lỡ cơ hội tăng trưởng ngành Nông Nghiệp, nắm bắt lợi thế cạnh tranh kịp thời trong bối cảnh hiện nay.

Nội dung

1. Tình hình chung và giải pháp chính sách của Việt Nam về kinh tế nông nghiệp

Gần đây giới học giả Việt Nam nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp dường như nghiên về xu hướng tiếp cận kinh tế nông nghiệp bền vững, hướng đến ngành sản xuất nông nghiệp theo hướng bảo vệ môi trường, sinh thái; nâng cao thu nhập cho người dân ở khu vực nông thôn; đảm bảo an ninh lương thực và an ninh quốc phòng; đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hiện đại, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, gắn với phát triển nông nghiệp nông sản, thích ứng với biến đổi khí hậu và kết nối bền vững với chuỗi giá trị toàn cầu” [1], [3], [4]. Xu hướng phát triển kinh tế nông nghiệp còn dựa trên nguồn lực của từng địa phương như nguồn lực thổ nhưỡng, kỹ thuật, con người… nhiều mô hình kinh tế hộ lần lượt ra đời tuy nhiên quá trình duy trì bềnh vững cho từng mô hình chưa được ghi nhận một cách thỏa đáng cùng với tốc độ phát triển nhanh chóng củ thị trường tiêu thụ thời đại công nghệ số, và thị trường còn phụ thuộc vào rất nhiều ở đầu ra tiêu thị sản phẩm, cách thức tiếp cận bằng tăng năng xuất, tăng sản lượng hiện taị cần được nhìn nhận lại dựa trên xu hướng phát triển công nghệ số, nhu cầu của khách hàng, truyền thông maketing ngành nông nghiệp và lợi thế cạnh tranh so sánh về giá, đòi hỏi kỹ thuật quản lý, quản trị quy trình sản xuất nông nghiệp cao.

2. Kết quả đạt được và định hướng chính sách của tỉnh Kiên Giang

Lãnh đạo UBND tỉnh Kiên Giang nhấn mạnh: Đầu tư phát triển nông nghiệp an toàn, bền vững và hiệu quả, tỉnh duy trì tăng trưởng, nâng cao khả năng cạnh tranh thông qua năng suất, hiệu quả, giá trị gia tăng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng. Không ngừng nâng cao thu nhập cho nông dân và mức sống của cư dân nông thôn tăng lên, giảm tỷ lệ nghèo. Tỉnh phấn đấu giai đoạn 2021 - 2025, tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm của ngành nông nghiệp 05 - 5,5%/năm; năm 2025, sản lượng lương thực đạt 04 - 4,2 triệu tấn, trong đó: Sản lượng lúa 04 triệu tấn; sản lượng thủy sản, đạt 800.000 tấn, trong đó: Nuôi trồng thủy sản 375.000 tấn (tôm nuôi 100.000 tấn). Giá trị sản lượng trên 01 ha đất nông nghiệp, đạt 130 - 170 triệu đồng. Tỉnh tổ chức sản xuất tập trung, liên doanh liên kết, tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị, tập trung xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm nông nghiệp chính. Ông Đỗ Minh Nhựt - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Kiên Giang cho biết: Tỉnh tiếp tục thực hiện hiệu quả, đề án cơ cấu nông nghiệp trên các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp. Rà soát, điều chỉnh kế hoạch phát triển vùng sản xuất các nông sản chủ lực của tỉnh.

Theo đó, tỉnh chuyển đổi dần diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang mô hình lúa - tôm, lúa - màu, cây rau màu, cây công nghiệp, cây ăn quả ở những nơi có điều kiện thích hợp nhất. Tổ chức sản xuất quy mô lớn, tập trung, áp dụng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn “GAP” gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị ngành hàng như: Lúa gạo, cây ăn quả…Tiếp đến, tỉnh rà soát quy hoạch phát triển chăn nuôi, khuyến khích phát triển chăn nuôi theo trang trại, chủ động phòng chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm. Triển khai thực hiện có hiệu quả chuyển dịch cơ cấu đàn chăn nuôi, theo hướng tăng tỷ trọng các loài vật nuôi có giá trị, có thị trường tiêu thụ. Tỉnh tiếp tục phát triển thủy sản, đối với đối tượng nuôi tôm nước lợ, cá nước ngọt, tập trung đẩy mạnh phát triển nuôi biển xa bờ gắn với quản lý, kiểm soát tốt vật tư, thức ăn thủy sản. Tỉnh thực hiện chính sách phát triển khai thác thủy sản, quản lý tốt tình trạng ngư dân đánh bắt trái phép vùng biển nước ngoài. Triển khai thực hiện có hiệu quả đề án phát triển nuôi biển theo định hướng bền vững trên địa bàn đến năm 2030, tập trung khai thác tiềm năng mặt nước ven biển, ven đảo để thả nuôi, đẩy mạnh nuôi xa khơi với công nghệ, kỹ thuật cao. Tỉnh tạo điều kiện thuận lợi để Tập đoàn Thủy sản Minh Phú triển khai đi vào hoạt động dự án “Khu phức hợp ứng dụng công nghệ cao phát triển chuỗi tôm hiệu quả và bền vững tại Kiên Giang”. Đối với lĩnh vực lâm nghiệp, tỉnh tiếp tục chăm sóc, trồng mới diện tích rừng phòng hộ ven biển. Tập trung quản lý, bảo vệ diện tích rừng hiện có, nhất là rừng trên đồi núi các huyện và xã đảo; tỷ lệ che phủ rừng trên địa bàn tỉnh duy trì 11%. Cùng với đó, tỉnh tăng cường thực hiện đồng bộ các giải pháp về công tác tuyên truyền, cơ chế chính sách trong tổ chức sản xuất nông nghiệp như: Đất đai, tài chính, tín dụng, khoa học công nghệ, nguồn nhân lực, môi trường… Tỉnh khuyến khích, thu hút các nguồn lực đầu tư nông nghiệp, nông thôn; đẩy mạnh phát triển các hình thức sản xuất mới, liên kết hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ nông sản.

3. Một số mô hình kinh tế nông nghiệp đã và đang thực hiện

Tổng quan các nghiên cứu về mô hình kinh tế nông nghiệp hiện nay ở Việt Nam, có thể thấy một số mô hình được áp dụng phổ biến như:

- Mô hình nông nghiệp tuần hoàn phát triển bền vững

- Mô hình vườn-ao-chuồng-phân bón hữu cơ

- Mô hình nông nghiệp CEA

- Mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao

- Mô hình nông nghiệp xanh

- Mô hình GAP (VietGap, GlobalGap) trong lĩnh vực nông nghiệp

Có quá nhiều những mô hình phát triển trong những năm gần đây, việc thực hiện áp dụng mô hình chuyển đổi mô hình một cách nhanh chóng thiếu bền vững dẫn đến hiệu quả kinh tế nhất định. Trong tình hình hiện nay của tỉnh Kiên Giang, việc tìm hiểu kỹ lưỡng những mô hình cần thiết, quan trọng và bền vững cho ngành kinh tế nông nghiệp tại địa phương là hết sức quan trọng nhằm hướng đến việc tận dụng hết nguồn lực nội tại để duy trình và phát triển những lợi thế của nông nghiệp tỉnh nhà là điều kiện tiên quyết trong bối cảnh hiện đại.

Kết luận và bàn luận

Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng bậc nhất của đất nước, cả trong quá khứ, hiện tại, ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ nhất đến sự ổn định và phát triển của đất nước, mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn, góp phần nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong thời gian tới, để ngành nông nghiệp của Việt Nam “cất cánh” theo tinh thần Nghị quyết số 19- NQ/TW, ngày 24-6-2022, của Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, cần tiếp tục thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.

Báo cáo tại hội nghị sơ kết thực hiện nghị quyết đại hội XI, nhiệm kỳ 2020-2025 công bố thu nhập bình quân đầu người năm 2023 đạt 74 triệu đồng tăng 17 triệu đồng/ đầu người so với năm 2020, tỉnh Kiên Giang có nền kinh tế đứng thứ 2 chỉ sau tỉnh Long An trong cụm ĐBSCL tính đến năm 2022 Kiên Giang đạt 116 nghìn tỉ đồng, đánh giá đúng tầm quan trọng của nền kinh tế nông nghiệp làm trụ đỡ cho kinh tế tỉnh nhà trong bối cảnh khó khăn sau dịch Covid-19, sự khủng hoảng của toàn xã hội, năm 2021-2023 tăng bình quân 11.33%. Nhưng để xây dựng nền kinh tế nông nghiệp bền vững cần đặc biệt quan tâm đến sự toàn diện của lĩnh vực nông nghiệp. Xác định lợi thế cạnh tranh là một nhu cầu hết sức cần thiết và quan trọng dành cho công tác quy hoạch và quản lý chung của nhà nước. Để nhìn nhận và đánh giá lại toàn bộ hoạt động của kinh tế nông nghiệp tại Kiêng Giang cần tiến hành một số hoạt động như sau:

Thứ nhất: Đánh giá, xây dựng khung kinh tế nông nghiệp thành công đáp ứng được tiêu chí của nhà nước Việt Nam, thay đổi nhận thức thị trường nông nghiệp sạch và tác động đến các lĩnh vực khoa học xã hội, đóng góp của khoa học xã hội thành công trong một dự án nghiên cứu là niềm tin, tự hào về một lĩnh vực khoa học quan trọng.

Thứ hai: Kết quả thành công sẽ giúp cho địa phương và xã hội vận dụng và sử dụng được bộ công cụ để khảo sát hoặc tự đánh giá mô hình dự án.

Thứ ba: Nhân rộng mô hình, tác động tích cực đến toàn xã hội là rất cần thiết

Thứ tư: Quảng quá được hình hành của nông nghiệp xanh của Việt Nam thông qua trang thông tin số hoá về sản phẩm nông nghiệp địa phương. Nâng tầm nông nghiệp Việt Nam.

* Tên địa danh và số liệu nghiên cứu trước ngày 01/7/2025

-----------------------------------------------------------------

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:

1. Shenggen Fan và Joanna Brzeska: Handbook Argiculture Economic=Chapter 66 Production, Productivity, and Public Investment in East Asian Agriculture: https://www.sciencedirect.com/science/article/ abs/pii/S1574007209040663

TÀI LIỆU THAM KHẢO: Tiếng Việt

[1] Đào Thị Hoàng Mai-Kim Ki-heung, 2019, Chính sách phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Hàn Quốc và hàm ý cho Việt Nam, KHXHVN, số 7, trang 48-54

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021-2030. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, truy cập ngày 29/5/2021.

[3] Hoàng Thị Minh Hà - Đinh Thị Hảo, (2021): “Cơ cấu lao động theo trình độ nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế đến năm 2025”, Tạp chí Kinh tế Tài chính Việt Nam, số 1-2021.

[4] Ngân hàng thế giới. (2017). Tổng quan về ô nhiễm nông nghiệp ở Việt Nam: Báo cáo tóm tắt 2017. Ban Môi trường và Nông nghiệp, Ngân hàng thế giới.

[5] Thủ tướng Chính phủ, (2020). Quyết định 324/ QĐ-TTg về việc Phê duyệt Chương trình tổng thể phát triển nông nghiệp bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045. Hà Nội, ngày 02 tháng 3 năm 2020.

[6] Trần Đức Viên, 2023, Phát triển nông nghiệp Việt Nam: Vất đề đặt ra và một số giải pháp, Tạp chí Cộng Sản online.

Tiếng Anh

[7] FAO/WHO Codex Alimentarius Commission (1999) Guidelines for the Production Processing, Labelling and Marketing of Organically Produced Foods

[8] Gyanaranjan S., Afaq M. W., Sandeep R. (2020), “Organic farming in India status, issues and challenges - A review”. PLANTA - Vol. 1, Research Book Series

[9] Panel Zhiyang Shen, at all, Green growth and structural change in Chinese agricultural sector during 1997-2014

 TS. DƯƠNG HIỀN HẠNH

Trường ĐH KHXH và NV TP. Hồ Chí Minh