PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ NHÀ GIÁO TRONG ĐIỀU KIỆN ĐẨY MẠNH “CHUYỂN ĐỔI SỐ” QUỐC GIA CỦA TRƯỜNG CAO ĐẲNG KỸ THUẬT PHÒNG KHÔNG - KHÔNG QUÂN

Thứ hai, 17/11/2025 - 20:52

Chuyển đổi số (CĐS) đang tạo ra những biến đổi sâu rộng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là giáo dục và đào tạo (GD, ĐT). Trong hệ thống học viện, nhà trường Quân đội, đội ngũ nhà giáo (ĐNNG) giữ vị trí trung tâm trong đổi mới, quyết định chất lượng đào tạo nhân lực chuyên môn kỹ thuật. Ở Trường Cao đẳng Kỹ thuật Phòng không - Không quân (PK-KQ), CĐS đặt ra yêu cầu cấp thiết phải chăm lo phát triển ĐNNG theo hướng hiện đại, chuẩn hóa, thích ứng nhanh với môi trường số

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Bài viết phân tích tính cấp thiết của việc phát triển ĐNNG trong bối cảnh đẩy mạnh CĐS quốc gia và đề xuất một số giải pháp trọng tâm giúp Nhà trường nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng mục tiêu xây dựng Quân chủng PK-KQ cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.

1. Đặt vấn đề

CĐS đã trở thành xu thế mang tính toàn cầu, là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh. Trong giáo dục, CĐS được xác định là một trong ba trụ cột ưu tiên trong Chương trình CĐS quốc gia, gắn liền với mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện GD, ĐT. Đối với Trường Cao đẳng Kỹ thuật PK-KQ - cơ sở đào tạo nhân lực chuyên môn kỹ thuật cho Quân chủng PK-KQ, CĐS vừa mở ra thời cơ lớn để hiện đại hóa hoạt động dạy học, vừa đặt ra những yêu cầu mới về năng lực số, phương pháp sư phạm và tư duy đổi mới của ĐNNG.

Thực tiễn cho thấy, bên cạnh những bước tiến trong ứng dụng công nghệ thông tin, học liệu số và mô phỏng kỹ thuật, năng lực số của giảng viên vẫn chưa đồng đều; cơ sở hạ tầng công nghệ còn hạn chế; quá trình số hóa bài giảng, mô hình huấn luyện chưa thật đồng bộ. Vì vậy, việc nghiên cứu giải pháp phát triển ĐNNG trong điều kiện đẩy mạnh CĐS là yêu cầu khách quan, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhiệm vụ xây dựng Quân chủng trong thời kỳ mới.

2. Nội dung

2.1. Tính cấp thiết của việc phát triển đội ngũ nhà giáo trong điều kiện đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia

Một là, chuyển đổi số - xu thế tất yếu và yêu cầu cấp bách trong GD, ĐT của Quân đội

Trong Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020, ngành GD, ĐT được xác định là một trong những lĩnh vực ưu tiên hàng đầu của chương trình CĐS quốc gia. Nghị quyết 57-NQ/TW năm 2024 tiếp tục khẳng định CĐS là "cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực", đồng thời là điều kiện tiên quyết để đất nước phát triển trong kỷ nguyên mới.

Trong Quân đội, Nghị quyết 3488-NQ/QUTW nhấn mạnh phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và CĐS là "một trong các đột phá quan trọng hàng đầu", tạo động lực nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật quân sự. Điều đó đòi hỏi các học viện, nhà trường - trong đó có Trường Cao đẳng Kỹ thuật PK-KQ - phải đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, hiện đại hóa phương thức dạy học.

Hai là, vai trò của đội ngũ nhà giáo Quân đội trong bối cảnh chuyển đổi số

ĐNNG Quân đội không chỉ là lực lượng trực tiếp truyền thụ kiến thức mà còn là trung tâm của quá trình đổi mới: Thiết kế bài giảng số, vận hành mô phỏng kỹ thuật, sử dụng hệ thống LMS, triển khai các phương pháp dạy học thông minh, tương tác ảo. Do đó, phát triển ĐNNG phải gắn với ba yếu tố: Phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp vững vàng; Năng lực chuyên môn - sư phạm hiện đại; Năng lực số đáp ứng môi trường giáo dục thông minh.

Nếu ĐNNG không được phát triển kịp thời cả về năng lực chuyên môn lẫn kỹ năng công nghệ, các nhà trường sẽ khó có thể bắt nhịp với yêu cầu đổi mới và hội nhập. Hơn thế, CĐS trong giáo dục không chỉ là việc trang bị công cụ công nghệ, mà còn là quá trình chuyển đổi tư duy sư phạm - từ dạy học truyền thụ sang dạy học sáng tạo, lấy người học làm trung tâm, khai thác triệt để các nền tảng số.

Ba là, yêu cầu phát triển ĐNNG của Trường Cao đẳng Kỹ thuật PK-KQ

Nhà trường có nhiệm vụ đào tạo nhân viên kỹ thuật các chuyên ngành tên lửa, ra đa, pháo phòng không... Đây là các lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao và luôn được hiện đại hóa. Do đó, giảng viên phải sở hữu: Năng lực mô phỏng khí tài hiện đại; Kỹ năng khai thác dữ liệu số; Khả năng thiết kế bài giảng điện tử, mô hình thực tế ảo phục vụ huấn luyện.

Những năm gần đây, Nhà trường đã triển khai nhiều hoạt động thiết thực: tổ chức các lớp bồi dưỡng kỹ năng CNTT; phổ cập "bình dân học vụ số" trên nền tảng QiMe; phát triển nhiều phần mềm dạy học mô phỏng; đầu tư thư viện điện tử và hệ thống đào tạo trực tuyến. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, dữ liệu số phân tán, kết nối liên thông còn hạn chế… Những điều đó, đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả ứng dụng công nghệ số trong dạy, học tại Nhà trường hiện nay.

Từ cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên có thể khẳng định, phát triển ĐNNG trong điều kiện đẩy mạnh CĐS là yêu cầu mang tính tất yếu khách quan, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nhân viên chuyên môn kỹ thuật cho Quân chủng PK-KQ và Quân đội.

2.2. Một số giải pháp phát triển ĐNNG ở Trường Cao đẳng kỹ thuật PK-KQ trong điều kiện đẩy mạnh CĐS quốc gia

Một là, nâng cao nhận thức của các chủ thể về vai trò của CĐS đối với công tác GD, ĐT

Cấp ủy, chỉ huy các cấp trong Nhà trường cần tiếp tục đẩy mạnh công tác quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên về CĐS, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của các chủ thể về vị trí, vai trò của CĐS trong việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục; đồng thời, làm chuyển biến về trách nhiệm hành động của chính ĐNNG trong thực hiện CĐS.

Đối với ĐNNG cần xác định rõ CĐS trong giáo dục không chỉ là ứng dụng công nghệ thông tin, mà là một sự thay đổi toàn diện trong cách tư duy, cách dạy và cách học. Trong môi trường giáo dục số, vai trò của người thầy không còn đơn thuần là người truyền đạt tri thức mà trở thành "người thiết kế, hướng dẫn và dẫn dắt quá trình học tập". Vì vậy, đổi mới tư duy sư phạm số chính là quá trình chuyển từ tư duy truyền thụ sang tư duy kiến tạo, từ "dạy cái có sẵn" sang "tạo môi trường học tập sáng tạo và tương tác số". Đây là yêu cầu tất yếu để thích ứng với phương thức đào tạo linh hoạt, cá thể hóa và dựa trên nền tảng công nghệ. Quá trình này không chỉ đòi hỏi kỹ năng công nghệ, mà quan trọng hơn là tư duy mở - sẵn sàng thích ứng, đổi mới và chia sẻ tri thức trong môi trường số.

Hai là, đẩy mạnh bồi dưỡng năng lực số cho ĐNNG

Bồi dưỡng năng lực số cho ĐNNG ở Trường Cao đẳng Kỹ thuật PK-KQ cần hướng tới ba nhóm năng lực: Năng lực công nghệ thông tin, năng lực sư phạm công nghệ số và năng lực thích ứng, đổi mới sáng tạo trên nền tảng số.

Ở nhóm năng lực công nghệ thông tin, tiếp tục đẩy mạnh việc phổ cập về kỹ năng tin học cho 100% cán bộ, giảng viên. Mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng tin học từ cơ bản đến nâng cao cho cán bộ, giảng viên. Có kiểm tra, đánh giá sau mỗi khóa huấn luyện, bồi dưỡng. Đây là cơ sở giúp ĐNNG ứng dụng hiệu quả công nghệ số, thực hiện CĐS vào quá trình giảng dạy. Xây dựng bộ tiêu chí chung với ĐNNG về khả năng sử dụng thành thạo quản lý các nền tảng học tập; xây dựng, sử dụng học liệu số, phòng học thông minh; thiết kế, ứng dụng phần mềm mô phỏng trang bị, khí tài mới vào dạy học, thiết kế bài giảng điện tử. Nâng cao kỹ năng bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng và bảo mật quân sự trong môi trường số hóa giảng dạy.

Ở nhóm năng lực sư phạm số, cần chú trọng bồi dưỡng khả năng tổ chức, thiết kế, đánh giá quá trình dạy học cả trực tiếp và trực tuyến của ĐNNG; bồi dưỡng kỹ năng dạy học tương tác, sử dụng thực tế ảo (VR), thực tế tăng cường (AR) và trí tuệ nhân tạo (AI) trong mô phỏng huấn luyện chuyên ngành. Đây là nội dung mới, do vậy cần có lộ trình thực hiện, từ chuẩn bị dữ liệu, xây dựng học liệu số, quy định số bài giảng điện tử cho từng năm và lộ trình hoàn thiện hệ thống bài giảng điện tử đối với mỗi nhà giáo.

Ở nhóm năng lực đổi mới sáng tạo, quan tâm phát triển tư duy số, năng lực nghiên cứu, phân tích dữ liệu và ứng dụng các công nghệ mới vào giảng dạy, quản lý và đánh giá kết quả học tập. Bồi dưỡng khả năng hợp tác, chia sẻ tri thức qua các nền tảng số, hình thành "văn hóa số" trong ĐNNG.

Hình thức bồi dưỡng cần được đa dạng hóa, linh hoạt: Sử dụng phương pháp chuyên gia; cử giảng viên tham gia các lớp đào tạo dài hạn, chính quy về ứng dụng công nghệ số vào dạy học; thông qua việc tự học, tự bồi dưỡng của chính ĐNNG; thông qua tọa đàm, xêmima…..

Ba là, quy hoạch và sử dụng ĐNNG theo hướng thích ứng với môi trường số hóa

Trên cơ sở biểu biên chế chung của Nhà trường, xây dựng quy hoạch tổng thể ĐNNG theo từng giai đoạn, bảo đảm tính hợp lý về số lượng cả trước mắt và lâu dài. Trong quy hoạch, ưu tiên cán bộ có trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm, năng lực ứng dụng công nghệ thông tin bố trí làm giảng viên. Chú trọng phát triển năng lực tích hợp công nghệ số cho giảng viên, như: Kỹ thuật điều khiển tự động, mô phỏng khí tài, khai thác dữ liệu ra đa - cảm biến, công nghệ thông tin quân sự, an ninh mạng; hướng các đề tài nghiên cứu khoa học vào khai thác, ứng dụng công nghệ số gắn với thực tiễn giảng dạy của giảng viên.

Đề xuất cấp có thẩm quyền bổ sung cán bộ, giảng viên chuyên sâu về công nghệ số làm nòng cốt trong hướng dẫn, bồi dưỡng giảng viên tiến hành xây dựng học liệu số, bài giảng điện tử, vận hành công nghệ vào thực hiện nhiệm vụ giảng dạy. Việc sử dụng giảng viên đảm bảo "đúng người, đúng việc, đúng năng lực số", phát huy được tiềm năng, thế mạnh của giảng viên. Gắn sử dụng với cơ chế đánh giá, khen thưởng theo năng lực số, khuyến khích giảng viên có sáng kiến, sản phẩm số hóa, bài giảng điện tử chất lượng, phần mềm huấn luyện mô phỏng; nhân rộng những mô hình hay, sáng tạo trong dạy học trên nền tảng số.

Bốn là, đầu tư, hoàn thiện hạ tầng công nghệ số phục vụ dạy học

Việc đầu tư, hoàn thiện hạ tầng công nghệ số không chỉ nhằm hiện đại hóa môi trường dạy học mà còn tạo điều kiện để ĐNNG phát huy năng lực, sáng tạo trong hoạt động sư phạm, nghiên cứu khoa học và quản lý giáo dục. Theo đó, Nhà trường cần xây dựng quy hoạch tổng thể về đầu tư hệ thống hạ tầng công nghệ số, như: Hệ thống mạng nội bộ (LAN), đường truyền Internet quân sự bảo mật, thư viện số, hệ thống học liệu số phục vụ quản lý học tập và điều hành số. Thư viện Nhà trường đảm bảo kết nối liên thông với hệ thống thư viện quốc gia, thư viện Quân đội, các học viện nhà trường lớn ngoài Quân đội. Việc đầu tư cần bảo đảm tính đồng bộ, an toàn, ồn định lâu dài. Đồng thời, cần có sự phối hợp với cơ quan chức năng của Quân chủng PK-KQ, Bộ Tư lệnh 86 để bảo đảm tính đồng bộ, an toàn trong vận hành dữ liệu số, bảo mật quân sự. Xây dựng hệ thống tường lửa, mã hóa dữ liệu và quy trình kiểm soát truy cập nghiêm ngặt.

Chú trọng hệ thống phần mềm quản lý số hóa bài giảng, kho học liệu điện tử, phẩn mềm quản lý học tập trực tuyến. Các phần mềm cho phép kết nối liên thông giữa các khoa, bộ môn, và kho học liệu điện tử trong toàn quân, trước hết là các thư viện số, từng bước tiến tới xây dựng, hoàn thiện "trường học thông minh"- nơi mọi hoạt động dạy học, kiểm tra, đánh giá đều diễn ra trong môi trường số. Đồng thời, xây dựng hệ thống ngân hàng câu hỏi thi, bài tập, đề thi chuẩn hóa, nâng cấp thư viện điện tử với nguồn học liệu đa dạng, phong phú, giúp giảng viên, học viên có thể dễ dàng truy cập, khai thác tri thức mọi lúc, mọi nơi.

Năm là, phát huy tinh thần tự học, tự bồi dưỡng, tự đổi mới của ĐNNG

ĐNNG phải không ngừng học hỏi để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tự học không chỉ là trách nhiệm nghề nghiệp mà còn là minh chứng sinh động cho tinh thần tự học, tự rèn, không ngừng đổi mới, sáng tạo của người thầy. Kết hợp giữa học tập cá nhân và học tập có tổ chức, giữa tự đổi mới và đổi mới mang tính định hướng chiến lược của Nhà trường. Khi mỗi nhà giáo đều có ý thức "học để đổi mới - đổi mới để phát triển", sẽ tạo động lực nội sinh mạnh mẽ cho toàn bộ quá trình CĐS giáo dục của Nhà trường, đưa đến sự phát triển thực chất của chính đội ngũ nhà giáo.

Nhà trường xây dựng cơ chế, môi trường và văn hóa tạo điều kiện cho ĐNNG học tập suốt đời. Môi trường đó phải khuyến khích giảng viên chủ động cập nhật tri thức, nghiên cứu khoa học, chia sẻ kinh nghiệm giảng dạy; coi việc học tập, nghiên cứu, đổi mới là nhu cầu tự thân chứ không chỉ là nhiệm vụ hành chính. Tổ chức diễn đàn xê-mi-na chia sẻ bài học kinh nghiệm trong dạy học số để thúc đẩy ý thức tự học tập của giảng viên. Khuyến khích giảng viên sử dụng nền tảng trực tuyến, ứng dụng công nghệ số để phục vụ cho việc tự học tập và tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực số, khả năng sư phạm số đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ.

3. Kết luận

Phát triển ĐNNG trong điều kiện đẩy mạnh CĐS quốc gia là yêu cầu khách quan, có ý nghĩa chiến lược đối với Trường Cao đẳng Kỹ thuật PK-KQ. Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ tạo nền tảng quan trọng giúp Nhà trường nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân chủng PK-KQ cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại trong thời kỳ mới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 57/NQ-TW ngày 22 tháng 12 năm 2024 của Bộ Chính trị về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

2. Bộ Tổng Tham mưu - Quân đội nhân dân Việt Nam, Đề án xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục trong Quân đội giai đoạn 2023 - 2030

3. Đảng bộ Trường Cao đẳng Kỹ thuật Phòng không - Không quân: Nghị quyết số 818-NQ/ĐU ngày 3 tháng 3 năm 2025 Nghị quyết về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong Trường Cao đẳng PK-KQ.

4. Đảng uỷ Quân sự Trung ương: Nghị quyết số 3488-NQ/QUTW ngày 29/1/2025 của Quân ủy Trung ương về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong Quân đội.

5. Đảng uỷ Quân sự Trung ương: Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XII, H.2025.

6. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, tr. 465.

7. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Giáo dục, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 60.

8. Trường Cao đẳng Kỹ thuật Phòng không - Không quân: Kế hoạch số 2455/KH-TCĐ ngày 16 tháng 11 năm 2022 về Chuyển đổi số lĩnh vực giáo dục, đào tạo trong Trường Cao đẳng Kỹ thuật PK-KQ giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2030.

9. Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 25 tháng 01 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án "Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022 - 2025, định hướng đến năm 2030".