Ảnh minh họa
Dự án không chỉ dừng lại ở việc hỗ trợ con giống, vốn hay tập huấn kỹ thuật, mà hướng đến mục tiêu sâu xa hơn là thay đổi tư duy sản xuất, cách chăm lo sức khỏe và dinh dưỡng, đặc biệt đối với phụ nữ và trẻ em. Qua đó, giảm nghèo được nhìn nhận không chỉ là bài toán về thu nhập, mà là quá trình nâng cao chất lượng sống và phát triển con người một cách toàn diện.
Tiểu dự án 1 tập trung hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp đã được triển khai rộng rãi với hơn 6.100 dự án các loại. Trong đó có gần 900 dự án trồng trọt, gần 5.000 dự án chăn nuôi, cùng hàng trăm mô hình về lâm nghiệp, khai thác và nuôi trồng thủy sản, diêm nghiệp và nhiều hình thức sản xuất khác. Tổng số hộ tham gia xấp xỉ 100.000 hộ, chủ yếu là hộ nghèo, cận nghèo, bên cạnh các hộ mới thoát nghèo, hộ chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số.
Từ trồng trọt, chăn nuôi đến lâm nghiệp, thủy sản hay diêm nghiệp, các địa phương đã linh hoạt triển khai Dự án 3 gắn với quy hoạch phát triển sản xuất, các đề án chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi của tỉnh, huyện. Thay vì áp dụng rập khuôn, mỗi mô hình đều được xây dựng trên cơ sở lợi thế vùng miền, điều kiện tự nhiên, tập quán canh tác và nhu cầu thị trường, tạo nên hướng đi phù hợp và bền vững.
Về phương diện kinh tế – xã hội, các mô hình hỗ trợ sản xuất đã tạo ra những chuyển biến rõ nét trong tư duy và cách làm ăn của người dân. Nếu trước đây sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún, chủ yếu tự cung tự cấp, thì nay tại nhiều địa phương đã hình thành mối liên kết giữa hộ dân, hợp tác xã và doanh nghiệp, từng bước xây dựng vùng nguyên liệu tập trung, có đầu ra ổn định hơn.
Nhiều tỉnh như Sơn La, Lào Cai, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Trà Vinh… đã nhân rộng các mô hình trồng dược liệu, chăn nuôi luân chuyển, chăn nuôi hữu cơ, trồng rừng sản xuất gắn với bảo vệ môi trường sinh thái. Sự thay đổi dễ nhận thấy nhất chính là ở tư duy sản xuất: người nông dân bắt đầu tính toán hiệu quả kinh tế, đầu tư bài bản, chủ động tìm kiếm thị trường thay vì chỉ trông chờ vào hỗ trợ.
Tại Sơn La, trong giai đoạn 2021 – 2025, hơn 18.100 triệu đồng đã được giải ngân cho phát triển sản xuất nông nghiệp và hơn 7.300 triệu đồng dành cho các hoạt động cải thiện dinh dưỡng. Cùng với đó, tỉnh đẩy mạnh truyền thông, giáo dục dinh dưỡng, phòng chống thiếu vi chất, kết hợp tập huấn và cung cấp thực phẩm bổ sung cho bà mẹ, trẻ em. Những kết quả đạt được không chỉ cải thiện tình trạng dinh dưỡng của hàng nghìn đối tượng, mà còn giúp Sơn La xây dựng hệ thống mục tiêu, chính sách phù hợp hơn cho chương trình giảm nghèo bền vững.
Tại Hà Tĩnh, tổng nguồn lực huy động cho Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững lên tới hơn 376 tỷ đồng, trong đó chủ yếu là ngân sách trung ương, phần còn lại từ ngân sách địa phương và sự tham gia đóng góp của người dân.
Dự án 3 được xem là “linh hồn” của chương trình khi tác động trực tiếp đến sinh kế và đời sống của người dân. Riêng Tiểu dự án 1 về hỗ trợ sản xuất nông nghiệp có tổng vốn khoảng 63 tỷ đồng, triển khai hơn 300 mô hình tại 12 huyện, thành phố, thị xã. Các mô hình tập trung chủ yếu vào chăn nuôi như lợn, bò, gà, dê, ong, cùng một số mô hình trồng cam, bưởi tại những vùng có lợi thế.
Ở Hương Khê, người dân chuyển sang nuôi bò lai sinh sản; tại Kỳ Anh, mô hình nuôi ong lấy mật và trồng cam phát triển mạnh; còn ở Đức Thọ, nuôi gà thả vườn, trồng bưởi Phúc Trạch giúp nhiều hộ có thêm nguồn thu ổn định. Nhờ được hỗ trợ về vốn, con giống và kỹ thuật, người dân từng bước chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ sang sản xuất hàng hóa, từ tâm thế “nhận hỗ trợ” sang “chủ động làm ăn”.
Đến nay, gần 2.000 hộ gia đình tại Hà Tĩnh đã thoát nghèo, thoát cận nghèo một cách bền vững. Nhiều hộ sau khi vươn lên đã trở thành hạt nhân lan tỏa, chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ cộng đồng. Các chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ nông sản dần hình thành, tạo thêm việc làm và thu nhập, khơi dậy khát vọng làm giàu chính đáng ngay trên quê hương.
Thực tiễn cho thấy, khi được trang bị kiến thức, kỹ năng và có niềm tin, người dân hoàn toàn có thể tự vượt qua khó khăn. Giảm nghèo theo cách tiếp cận này không còn là giải pháp ngắn hạn, mà là hành trình nâng cao năng lực tự chủ và mở rộng cơ hội phát triển cho từng hộ gia đình.
Trong hệ thống tiêu chí nghèo đa chiều, dinh dưỡng là một chỉ số quan trọng phản ánh mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản. Nếu hỗ trợ phát triển sản xuất tác động vào “đầu vào” của sinh kế, thì Tiểu dự án 2 về cải thiện dinh dưỡng hướng tới “đầu ra” là chất lượng con người, từ sức khỏe thể chất đến năng lực học tập và lao động.
Ba năm qua, hàng trăm nghìn trẻ em dưới 5 tuổi được bổ sung vi chất; hàng trăm nghìn bà mẹ có con nhỏ được tư vấn chế độ dinh dưỡng hợp lý; hàng chục nghìn phụ nữ mang thai được hỗ trợ vi chất; nhiều trẻ suy dinh dưỡng cấp tính được theo dõi, quản lý tại cộng đồng; một lực lượng lớn trẻ em từ 5 đến 16 tuổi được tư vấn và bổ sung dinh dưỡng. Những con số này cho thấy quy mô và sức lan tỏa của các chính sách y tế cộng đồng gắn với giảm nghèo.
Đáng chú ý, Tiểu dự án cải thiện dinh dưỡng được triển khai gắn kết chặt chẽ giữa chính sách an sinh xã hội và y tế dự phòng. Tại nhiều địa phương nghèo, các hoạt động được thực hiện thông qua mạng lưới trạm y tế xã, y tế thôn bản và trường học, qua đó từng bước nâng cao nhận thức của người dân về chăm sóc sức khỏe, phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em.
Tại Nghệ An, Tiểu dự án 2 được triển khai với nguồn vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2021 – 2025 hơn 38 tỷ đồng. Tỉnh tổ chức nhiều lớp tập huấn cho cán bộ y tế cơ sở; hàng nghìn trẻ em và bà mẹ được bổ sung vi chất, tư vấn dinh dưỡng; nhiều phụ nữ mang thai được hỗ trợ chế độ dinh dưỡng; trẻ em suy dinh dưỡng cấp tính được theo dõi, quản lý ngay tại cộng đồng, góp phần cải thiện rõ rệt tình trạng dinh dưỡng, nhất là ở vùng sâu, vùng xa.
Tại Thanh Hóa, trong giai đoạn 2023 – 2024, Tiểu dự án 2 được Trung ương giao hơn 30 tỷ đồng. Nguồn vốn được phân bổ kịp thời cho các địa phương triển khai các hoạt động phòng chống suy dinh dưỡng, bổ sung vi chất cho bà mẹ và trẻ em thuộc hộ nghèo, cận nghèo, vùng đặc biệt khó khăn. Tỷ lệ giải ngân đạt kết quả tích cực, dự kiến sử dụng hết nguồn vốn vào cuối năm 2025.
Theo đánh giá, các hoạt động cải thiện dinh dưỡng đã góp phần quan trọng làm giảm số hộ nghèo thiếu hụt về dinh dưỡng theo chuẩn nghèo đa chiều, từng bước thu hẹp khoảng cách tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, hỗ trợ các địa phương hoàn thành mục tiêu giảm nghèo giai đoạn 2021 – 2025.
Cải thiện dinh dưỡng chính là đầu tư cho tương lai. Khi người dân, đặc biệt là trẻ em, được chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng đầy đủ, họ sẽ có nền tảng tốt hơn để học tập, lao động và vươn lên, tạo tiền đề cho quá trình thoát nghèo bền vững.
Từ những kết quả của Dự án 3 có thể thấy rõ cách tiếp cận nhất quán của Chính phủ: giảm nghèo không chỉ dựa vào hỗ trợ tiền hay hiện vật, mà phải song song xây dựng sinh kế và đầu tư cho con người. Hỗ trợ sản xuất tạo việc làm, thu nhập; cải thiện dinh dưỡng nâng cao thể lực, trí lực, giúp người dân chủ động nắm bắt cơ hội phát triển.
Giảm nghèo vì thế không thể chỉ đo bằng thu nhập bình quân, mà còn phải nhìn vào năng lực tự chủ và khả năng phát triển của mỗi cá nhân, mỗi gia đình. Ở góc độ đó, Dự án 3 không đơn thuần là một chương trình kinh tế – xã hội, mà là chính sách phát triển con người toàn diện, phù hợp với mục tiêu phát triển bao trùm, bền vững và không để ai bị bỏ lại phía sau.
Điểm tiến bộ nổi bật của Dự án 3 chính là sự gắn kết chặt chẽ giữa hai hợp phần tưởng chừng độc lập nhưng lại bổ trợ trực tiếp cho nhau: phát triển sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp nhằm tạo sinh kế bền vững và nâng cao thu nhập; đồng thời cải thiện dinh dưỡng để đầu tư cho sức khỏe, thể trạng con người. Hai hướng tiếp cận này tạo nên mối liên kết hữu cơ giữa kinh tế, xã hội và con người, thể hiện tầm nhìn dài hạn trong chiến lược phát triển toàn diện, bền vững và bao trùm của Việt Nam.