Quan điểm của Đảng về phòng, chống “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên hiện nay

Thứ năm, 27/04/2023 - 15:35

TNV - Phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ then chốt trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là một trong những nguy cơ đe dọa tới sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là cách thức để các thế lực thù địch thực hiện âm mưu xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Theo đó, việc xác định các biện pháp phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ cấp thiết đối với Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sự nghiệ p lãnh đạo cách mạng .

Quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, dựa trên cơ sở tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII); dự báo tình hình thế giới và đất nước trong những năm tới, nhất là bốn nguy cơ Đảng chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt gay gắt hơn, đặc biệt là: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”[3, tr.92] đã được chỉ ra tại Đại hội XIII của Đảng, làm cơ sở để Đảng xác định mục tiêu, nhiệm vụ, xây dựng chỉnh đốn Đảng trước những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn cách mạng hiện nay.

Biểu hiện “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

“Tự diễn biến” của cán bộ, đảng viên là quá trình tự biến chất của một người quân nhân cách mạng xét trên tất cả các lĩnh vực chính trị - tư tưởng, văn hóa - tinh thần, phẩm chất - đạo đức, sự kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng, lập trường quan điểm… diễn ra một cách hòa bình, không bằng các biện pháp bạo lực, trực tiếp ảnh hưởng đến thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi cá nhân. Trong Văn kiện Đại hội XI (năm 2011), lần đầu tiên Đảng ta nhận định: “Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có những diễn biến phức tạp”[1, tr.185].

“Tự chuyển hóa” là quá trình diễn ra trong nội bộ, cả ở phạm vi tổ chức và cá nhân. Đây là sự thay đổi về chất của tổ chức hoặc cá nhân, dẫn tới biến đổi không còn là chính mình nữa, thậm chí chuyển sang phía đối lập. “Tự chuyển hóa” ở nước ta xuất hiện từ hai hướng: một mặt, đó là do âm mưu và tác động chuyển hóa chính trị của các thế lực thù địch (yếu tố bên ngoài); mặt khác, đó là sự “tự chuyển hóa” của nội bộ (yếu tố bên trong). Hai hướng này có có quan hệ chặt chẽ với nhau. Yếu tố bên ngoài thúc đẩy, tạo điều kiện cho yếu tố bên trong; yếu tố bên trong tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi cho yếu tố bên ngoài. Trong đó, “tự chuyển hóa” bên trong sẽ quyết định sự thay đổi về chính trị.

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên là hệ quả của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống theo chiều hướng ngày càng tăng, tính chất ngày càng nghiêm trọng. Điều đó khiến cho vai trò tiên phong, gương mẫu của họ ngày càng giảm, không đủ “sức miễn dịch”, thiếu “sức đề kháng” trước những tác động tiêu cực trong xã hội, đồng lõa với những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động đối với cách mạng Việt Nam. Theo đó, Đảng đã nhận định: “những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp”[2, tr.174]. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn là biểu hiện rõ nhất của bản lĩnh chính trị không vững vàng, từ chỗ ban đầu là mơ hồ ảo tưởng, hoang mang, dao động về tư tưởng chính trị, phai nhạt mục tiêu lý tưởng cách mạng dẫn đến hoài nghi về sự lãnh đạo của Đảng, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hộ, về công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Thấp kém về tinh thần và đạo đức cách mạng… mang nặng chủ nghĩa cá nhân… không có dũng khí cách mạng, ít lo nghĩ về trách nhiệm của mình, không quyết tâm vươn lên phía trước… hững hờ như những người không có lý tưởng,… không có thái độ người làm chủ tập thể, dám nghĩ dám làm”[6, tr.468]; thậm chí “ít gắn bó với tổ chức, không tin ở lực lượng và trí tuệ của tập thể. Họ sống và làm việc một cách riêng rẽ, không đoàn kết và hợp tác với người khác… tự cao tự đại, vênh vang kiêu ngạo, tự cho mình tài giỏi hơn người… coi thường những quyết định của tổ chức,… coi Đảng như một cái cầu thang để thăng quan phát tài… chỉ lo nghĩ đến lợi ích của riêng mình… phô trương, lãng phí… sống xa hoa hưởng lạc, từ đó mà đi đến tham ô, trụy lạc, thậm chí sa vào tội lỗi”[6, tr.469],“biến thành người có tội với cách mạng” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái.

Biệp pháp phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên

Thứ nhất, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa trong nội bộ.

Biểu hiện tính cấp thiết trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng có chủ trương: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”[3, tr.180]. Theo đó, giải pháp tăng cường xây dựng Đảng về chính trị nhằm phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên được xác định là: “Nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị, trình độ, trí tuệ, tính chất chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, cán bộ cấp chiến lược” [3, tr.181].

Bên cạnh đó, Đảng tiếp tục nhấn mạnh, phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, biết vận dụng, phát triển sáng tạo và phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới và các nguyên tắc tổ chức của Đảng. Mặt khác, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, cần tăng cường nắm bắt, định hướng dư luận xã hội, bảo đảm sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận cao trong xã hội; đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; tiếp tục đổi mới việc học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Trong đó, Đảng xác định trọng tâm vào công tác đổi mới căn bản chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục lý luận chính trị; không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. Cùng với đó, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng được xác định là nhiệm vụ then chốt, quyết định đến sự tồn vong của Đảng. Vì thế, Đảng khẳng định: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”[3, tr.183].

Thứ hai, công tác xây dựng Đảng về đạo đức, tăng cường giáo dục truyền thống văn hóa tốt đẹp và lịch sử cách mạng vẻ vang của Đảng.

Công tác xây dựng Đảng về đạo đức tiếp tục được Đại hội XIII nhấn mạnh và cụ thể hóa trên một số nội dung liên quan trong công tác xây dựng Đảng. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng chủ trương: “Nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, thực hiện thường xuyên, sâu rộng có hiệu quả việc học tậ p, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị”[3, tr.183]. Qua đó, yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên cần thực hiện nghiêm các quy định của Đảng về chức trách nêu gương, đối với người chức vụ càng cao càng phải gương mẫu. Theo đó, đảng viên tự giác nêu gương để khẳng định vị trí, vai trò tiền phong, gương mẫu, tạo ra sự lan tỏa thúc đẩy các phong trào cách mạng.

Tập trung giáo dục đạo đức cách mạng gắn liền với tăng cường giáo dục truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc và lịch sử cách mạng vẻ vang của Đảng. Thường xuyên nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” cho phù hợp với truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Công tác giáo dục nâng cao đạo đức cách mạng cần được đẩy mạnh hơn nữa, làm cho cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước khó khăn thử thách, không bị lôi kéo, cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng. Xây dựng hệ thống các chuẩn mực đạo đức làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự điều chỉnh hành vi ứng xử cho bản thân mình. Mặt khác, nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng. Đồng thời, cổ vũ, biểu dương các gương sáng đạo đức, tạo ra ảnh hưởng sâu rộng trong Đảng và toàn xã hội. Kết hợp giữa giữ vững kỷ luật, kỷ cương của Đảng, thực hiện pháp luật Nhà nước với giáo dục, bồi dưỡng nhân cách, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Thực hiện có hiệu quả việc giám sát của mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu và cán bộ chủ chốt.

Thứ ba,công tác kiểm tra giám sát, thi hành kỷ luật Đảng phải được đổi mới, tiến hành thường xuyên, có hiệu quả.

Đảng luôn chủ trươngđổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng để góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, làm cho Đảng ta luôn trong sạch, vững mạnh . Do đó,đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng là cơ sở để Đảng thực hiện tốt công tác phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cán bộ, đảng viên. Cho nên “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện quy định, quy chế, quy trình nhằm siết chặt kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng bảo đảm khách quan, dân chủ, khoa học, đồng bộ, thống nhất, thận trọng, chặt chẽ, khả thi”[3,tr.188].

Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm tra, giám sát của Đảng với thanh tra, kiểm toán nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật để tăng cường sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm tra, giám sát, phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, cán bộ đảng trong các cơ quan nhà nước. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy trong việc cụ thể hóa và thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng. Khi các vụ việc vi phạm được phát hiện phải xử lý kịp thời, nghiêm minh, không có vùng cấm, không “xử lý nội bộ”. Vi phạm đến mức phải xử lý hình sự thì kiên quyết chuyển sang cơ quan điều tra, truy tố, xét xử theo đúng quy định của pháp luật. Tăng cường sự phối hợp giám sát của Đảng với giám sát của Nhà nước và của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội chính là thực hiện tư tưởng “nước lấy dân làm gốc”, nhằm tổ chức, động viên nhân dân tham gia góp ý, phê bình cán bộ, đảng viên, góp phần đưa công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng đi vào chiều sâu và thực chất.

Thứ tư, để phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên cần đổi mới công tác cán bộ.

Bên cạnh những nội dung về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, Đảng đã bổ sung thêm nội dung xây dựng, chỉnh đốn Đảng về cán bộ, tạo dựng năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng được toàn diện hơn. Mặc dù, trong những nhiệm kỳ trước, công tác cán bộ được Đảng quan tâm lãnh đạo, song tới Đại hội lần này, Đảng mới chính thức đưa ra công tác cán bộ trở thành một thành tố quan trọng, quyết định trực tiếp tới công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trên cơ sở tổng kết, đánh giá toàn diện, sâu sắc, công tác xây dựng, chỉnh đón Đảng, nhất là công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn cách mạng.

Thông qua nội dung xây dựng, chỉnh đốn Đảng về cán bộ cho thấy, Đảngđặc biệt coi trọng công tác cán bộ, coi đây là nhiệm vụ “then chốt” có liên quan đến sự sống còn của Đảng và vận mệnh của chế độ. Theo đó, “tập trung vào xây dựng phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ… Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn thủ thách, dám hành động vì lợi ích chung”[3, tr.187]. Đặc biệt, Đảng xác định giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong thực thi công vụ; hoàn thiện thể chế Đảng lãnh đạo công tác cán bộ, cải cách thủ tục hành chính và đẩy mạnh phân cấp, phân quyền về công tác cán bộ, kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong từng khâu của công tác cán bộ, nhất là người đứng đầu cấp ủy, thủ trưởng cơ quan, đơn vị. Đồng thời, đổi mới mạnh mẽ cơ chế phát hiện, lựa chọn, thu hút, trọng dụng nhân tài; hoàn thiện việc xây dựng cơ chế khuyến khích, bảo vệ những cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thủ thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.

Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng với các giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt, đồng bộ để ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới. Qua đó, để cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận, trách nhiệm của mình trong rèn luyện, phấn đấu. Kiên quyết đấu tranh xử lý nghiêm những cán bộ có động cơ sai trái, tư tưởng cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng, Internet, mạng xã hội,… để xuyên tạc kích động, gây mất đoàn kết nội bộ. Trong đó, nêu cao danh dự, lòng tự trọng, tinh thần trách nhiệm nêu gương, phòng chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của mỗi cán bộ, đảng viên; đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới.

Tóm lại, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên là quá trình tạo ra động lực nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Qua đó, làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng trau dồi phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ cách mạng. Nhận thức rõ vai trò của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện mới. Các Nghị quyết của Đảng đã đưa ra những chủ trương, giải pháp mang tính đột phá trong công tác phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên. Thôngqua một số giải pháp  phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên sẽ tạo ra động lực phát huy hết chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hôm nay và mai sau.

Tài liệu tham khảo

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội.

[2]Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII , Văn phòng Trung ương Đảng , Hà Nội.

[3]Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[4]Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII , tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[5] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5 , Nxb Chính trị quốc gia - Sự Thật , Hà Nội.

[6] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14 , Nxb Chính trị quốc gia - Sự Thật , Hà Nội.

ThS Phạm Hồng Hải