Quảng Ninh hướng tới mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững

Thứ ba, 04/01/2022 - 16:20

TNV - Với diện tích đất quy hoạch cho lâm nghiệp là 435.932 ha, chiếm hơn 70% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, trong đó có 370.144 ha đất có rừng, đứng thứ 18/63 tỉnh thành trong cả nước; đối với tỉnh Quảng Ninh, rừng không chỉ có vị trí đặc biệt quan trọng trong phòng hộ bảo vệ đầu nguồn, vùng ven biển, bảo tồn đa dạng sinh học, hạn chế thiên tai,tạo nguồn sinh thủy đảm bảo chiến lược an ninh nguồn nước, mà rừng còn đóng vai trò quan trọng gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, đưa du lịch phát triển bền vững và trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời, tạo việc làm, nâng cao đời sống cho người dân vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và góp phần đảm bảo an ninh, quốc phòng, là vành đai xanh bảo vệ biên giới.

Ban hành nghị quyết chuyên đề về lâm nghiệp và triển khai thực hiện cho kết quả ban đầu tích cực

Trên cơ sở đó, tháng 11/2019 Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh đã ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TU về phát triển lâm nghiệp bền vững đến 2025, tầm nhìn đến 2030. Đây là một trong số ít địa phương trên cả nước đã quan tâm ban hành nghị quyết chuyên đề về lâm nghiệp và triển khai thực hiện cho kết quả ban đầu tích cực.

Bảo tồn đa dạng sinh học ở Khu bảo tồn Loài Sinh cảnh Quảng Nam Châu

Quảng Ninh là tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế nhanh và sôi động nhưng có tỷ lệ che phủ rừng đạt 55,06% cao hơn mức bình quân chung cả nước là 13,05%, đứng thứ 14/63 tỉnh thành.

Trong 2 năm (2020 – 2021) toàn tỉnh đã trồng được 2 4.412 ha rừng tập trung, bình quân 12.206 ha/năm, tăng 1.412 ha/năm so với giai đoạn năm 2018 – 2019. Chất lượng rừng được nâng lên thông qua việc trồng rừng tập trung bằng các loài cây bản địa (Thông, Lim xanh) trong rừng phòng hộ (918 ha); trồng bổ sung 261 ha rừng ngập mặn bằng loài cây Đước vòi và trồng rừng sản xuất 1.558 ha bằng loài cây bản địa (Quế, Giổi, Sa mộc, Sồi phảng, Thông), chiếm gần 10% diện tích trồng rừng sản xuất toàn tỉnh.

Bên cạnh đó, toàn tỉnh trồng được 1.192.572 cây phân tán, tăng 221.000 cây so với năm 2018 – 2019; thực hiện tốt việc chăm sóc 97.632 ha rừng;  khoanh nuôi tái sinh diện tích 14.704 ha, góp phần nâng cao chất lượng rừng.

Điển hình trong vận động nhân dân tham gia trồng cây gỗ lớn, cây bản địa là huyện Ba Chẽ và TP Hạ Long; đến nay huyện Ba Chẽ đã vận động được 544 hộ với diện tích 985 ha,TP Hạ Long 84 hộ với diện tích 200 ha.

Trước khi ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TU, toàn tỉnh có 24.904 ha rừng đặc dụng tập trung tại 06 khu rừng. Năm 2020 UBND tỉnh đã quyết định thành lập Rừng đặc dụng bảo vệ cảnh quan Vịnh Hạ Long ; năm 2021 phê duyệt nhiệm vụ thành lập Khu bảo tồn Loài Sinh cảnh Quảng Nam Châu , đồng thời đang lập đề án thành lập Khu bảo tồn đất ngập nước Đồng Rui - Tiên Yên là Khu bảo tồn đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế (Khu Ramsar); bảo vệ chặt chẽ rừng trâm đỏ, rừng trõi nguyên sinh (Cô Tô), rừng trâm (huyện Vân Đồn).Nâng diện tích quy hoạch cho rừng đặc dụng lên trên 47.000 ha, tăng 22.000 ha trước khi Ban hành Nghị Quyết.

Hạt kiểm lâm Móng Cái tuần tra vành đai xanh bảo vệ biên giới.

Ngoài ra, tỉnh đã hoàn thành xây dựng Đề án du lịch sinh thái Khu bảo tồn thiên nhiên Đồng Sơn - Kỳ Thượng ; đang triển khai lập dự án Công viên rừng trên địa bàn thành phố Hạ Long .

Đặc biệt, từ chỗ chỉ có 01 phương án quản lý rừng bền vững đến nay có 12/17 đơn vị thuộc diện UBND tỉnh phê duyệt đã hoàn thành xây dựng và phê duyệt phương án quản lý rừng bền vững với tổng diện tích 97.024 ha. Hiện nay, xây dựng phương án quản lý rừng bền vững đã trở thành yêu cầu bắt buộc đối với các đơn vị có liên quan đến rừng.

Đối với khai thác gỗ rừng trồng: Trong 02 năm toàn tỉnh đã khai thác 18.900 ha rừng trồng với sản lượng 1.146.040 m 3 , tăng 259.257 m 3 (gần 30%) so với giai đoạn 2018-2019 (886.783 m 3 ). Khai thác lâm sản ngoài gỗ: Sản lượng khai thác nhựa thông đạt 4.429,2 tấn, hoa hồi đạt 1.058 tấn, vỏ quế đạt 4.074,3 tấn, hạt sở đạt 321,7 tấn; ngoài ra đã hình thành vùng sản xuất dược liệu với sản lượng khai thác hàng năm Ba kích 1,5 tấn, Trà hoa vàng 25 tấn hoa tươi.

Về năng suất rừng trồng, sản lượng khai thác gỗ bình quân đạt trên 60m3/ha tăng gần 10 m3/ha so với giai đoạn 2018-2019, như vậy giá trị rừng sản xuất trên đơn vị diện tích có dấu hiệu tăng, năng suất rừng trồng dần được cải thiện.

Tính đến tháng 7/2021, tổng diện tích rừng, đất rừng đã được UBND cấp huyện giao, cho thuê là 140.850,06 ha với 34.328 hộ; diện tích các hộ đang quản lý nhưng chưa giao, cho thuê là 23.253,88 ha với 7.726 hộ và diện tích do UBND xã đang quản lý chưa giao, cho thuê là 59.393,33 ha. Các sở ngành, địa phương đã triển khai đồng bộ các giải pháp về tăng cường quản lý, giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng lâm nghiệp, qua đó thu hút các nguồn lực để phát triển kinh tế, tăng thu ngân sách và sử dụng hiệu quả tài nguyên đất rừng.

Thực hiện chính sách chi trả môi trường rừng, 15 lưu vực nội tỉnh có tổng diện tích 160.000 ha, với 04 loại hình tham gia chi trả (Nước sạch, Thủy điện,Du lịch, Nước công nghiệp), số tiền thu được của 02 năm (2020 - 2021) là 6.887 triệu đồng, ngoài ra năm 2021 tỉnh Quảng Ninh được Quỹ bảo vệ và phát triển rừng cấp 3.622 triệu đồng. Toàn bộ số tiền này đều được chi trả cho các đối tượng được thụ hưởng và chi quản lý, dự phòng quỹ theo quy định, đã góp phần giảm sức ép cho ngân sách tỉnh trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng .

Năm 2020-2021 nguồn vốn ODA đầu tư cho công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn là: 31.200 triệu đồng; có 12 cộng đồng thôn bản vùng ven biển được hưởng lợi từ việc tham gia trồng, chăm sóc, quản lý bảo vệ rừng thuộc Dự án FMCR tỉnh Quảng Ninh, nguồn vốn vay WB.

Than Đèo Nai trồng rừng hoàn nguyên môi trường.

Doanh số cho vay ngành lâm nghiệp và hoạt động dịch vụ có liên quan năm 2020 và 9 tháng năm 2021 là 1.675.000 triệu đồng, chiếm 25,2% doanh số cho vay ngành nông, lâm, thủy sản trên địa bàn.

Tổng thể nguồn lực thực hiện Nghị quyết 19-NQ/TU trong 2 năm toàn tỉnh đã huy động được 1.252.000 triệu đồng đầu tư cho lâm nghiệp ; trong đó, tổng số tiền nộp về Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh Quảng Ninh là 252.144 triệu đồng. UBND tỉnh đã Quyết định phân kế hoạch trồng rừng thay thế cho 07 đơn vị thực hiện trồng rừng thay thế bằng các loài cây bản địa, cây gỗ lớn tại các khu vực quy hoạch rừng đặc dụng, rừng phòng hộ với diện tích giao là 626,95 ha tương ứng với số tiền 49.585 triệu đồng. Các diện tích được phê duyệt đã thực hiện trồng, chăm sóc năm thứ nhất và năm thứ 2; qua kiểm tra, đánh giá cây sinh trưởng phát triển tốt, đúng hồ sơ thiết kế được phê duyệt .

Kinh phí bố trí thực hiện chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững năm 2021 đạt 3,2% (175.431 triệu đồng/5.411.127 triệu đồng) cao hơn chỉ tiêu bố trí nguồn vốn theo Nghị quyết 19-NQ/TU giao là 3%, cho thấy quyết tâm của tỉnh với mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững.

Kịp thời chấn chỉnh công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng; n âng cao năng suất, chất lượng và giá trị của rừng

Sau 02 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TU nhận thức, ý thức và trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên và nhân dân về công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng về căn bản đã có chuyển biến rõ rệt vị trí, vai trò, tầm quan trọng của ngành lâm nghiệp được nâng lên trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội - môi trường của tỉnh.

Nguồn lực đầu tư cho phát triển lâm nghiệp đã tăng lên đáng kể, đặc biệt là nguồn lực xã hội hóa, giảm sức ép đầu tư từ ngân sách Nhà nước; được nhân dân đồng tình ủng hộ,góp phần củng cố và nâng cao niềm tin của nhân dân đối với các cấp ủy, chính quyền các địa phương về công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng bền vững.

Bà con xã Đồng Rui (Tiên Yên) trồng rừng ngập mặn.

Cơ cấu cây trồng trong lâm nghiệp đã có chuyển biến tích cực theo hướng tăng diện tích cây bản địa, cây gỗ lớn góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị của rừng ; xã hội hoá nghề rừng được đẩy mạnh, đặc biệt trong đầu tư và thu hút nguồn lực đầu tư. Diện tích trồng rừng sản xuất, sản lượng khai thác gỗ, kim ngạch xuất khẩu, phương án quản lý rừng bền vững, các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, quản lý rừng… đều tăng so với trước khi có Nghị quyết. Song song với bảo vệ tốt diện tích rừng tự nhiên, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng hiện có, trong 02 năm đã tổ chức trồng mới và trồng bổ sung 261 ha rừng ngập mặn; đồng thời, thành lập Khu rừng đặc dụng Vịnh Hạ Long, Khu bảo tồn Quảng Nam Châu, Khu Bảo tồn đất ngập nước Đồng Rui, góp phần bảo tồn đa dạng sinh học và phát huy hiệu quả phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ ven biển, đảm bảo an ninh nguồn nước, duy trì tỷ lệ che phủ rừng đạt 55,06% và các mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững.

Để có được kết quả trên, BTV Tỉnh uỷ đã tổ chức 01 cuộc giám sát một số cấp ủy trực thuộc trong việc lãnh đạo, thực hiện giao đất, cho thuê đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quản lý và sử dụng đất rừng, đất nuôi trồng thủy sản thuộc thẩm quyền cấp huyện. Đây là cuộc giám sát cấp uỷ cao nhất của tỉnh, góp phần chấn chỉnh kịp thời công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn tỉnh .

Mặt khác, Thanh tra tỉnh và Sở Nông nghiệp và PTNT cũng thực hiện 18 cuộc thanh tra về lĩnh vực lâm nghiệp, tập trung vào công tác giao rừng, cho thuê rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng, trồng rừng thay thế; các địa phương cấp huyện đã tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát về công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và sử dụng rừng, đất lâm nghiệp vào kế hoạch hàng năm, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý các trường hợp sai phạm.

Đồng thời, Kiểm lâm tỉnh duy trì tốt hoạt động của 934 tổ, đội PCCCR với 9.440 người tham gia; tổ chức  20 cuộc diễn tập PCCCR; 13 cuộc thi tìm hiểu Luật Lâm nghiệp, quy định về PCCCR với 10.400 học sinh tham gia; 160 cuộc tuyên truyền bảo vệ rừng và PCCCR tại các thôn, bản với 7.680 người tham gia là các hộ dân sinh sống gần rừng và lao động nghề rừng; tổ chức 21 lớp tập huấn nghiệp vụ quản lý lửa rừng, kiến thức và kỹ thuật PCCCR với 1.575 người tham gia; thực hiện tốt công tác quản lý động vật hoang dã và bảo vệ chim di cư, đã góp phần tích cực làm nên những kết quả rõ nét trong thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TU thời gian qua.

Thăm rừng trõi trên đảo Cô Tô

Được biết, bên cạnh kết quả đạt được, ngành lâm nghiệp Quảng Ninh vẫn còn những tồn tại, hạn chế, đó là: Tình trạng vi phạm các quy định về bảo vệ và phát triển rừng có giảm nhưng trong 02 năm vẫn có 08 vụ vi phạm về tội Huỷ hoại rừng đến mức phải xử lý hình sự. Công tác kiểm tra, giám sát quản lý sử dụng rừng và đất lâm nghiệp, nhất là ở các địa bàn có tài nguyên khoáng sản chưa được thường xuyên.

Diện rừng trồng cây bản địa đã tăng nhanh nhưng chất lượng rừng nhìn chung chưa có chuyển biến rõ nét. Đối với rừng tự nhiên theo kết quả điều tracho thấy chỉ có 0,08 % diện tích là rừng giàu , 5,02 % rừng trung bình còn lại rừng nghèo kiệt, phục hồi chiếm đa số với 94,9 %, chất lượng rừng tự nhiên chưa cao, tính đa dạng sinh học của một số trạng thái rừng tự nhiên tăng chậm.

Hầu hết các khâu trong sản xuất lâm nghiệp vẫn là thủ công, trình độ công nghệ và mức độ cơ giới hoá chưa cao ; số cơ sở chế biến lâm sản nhỏ lẻ đã giảm đạt kế hoạch tỉnh giao nhưng tại một số địa phương thực hiện chưa đảm bảo kế hoạch.

Môi trường đầu tư trong lĩnh vực lâm nghiệp tuy đã cải thiện, nhưng do đặc thù chu kỳ sản xuất kinh doanh dài, chịu nhiều ảnh hưởng thiên tai, chủ yếu phân bố ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn nên chưa có cơ chế đủ hấp dẫn về đất đai, tín dụng, thuế,.. để thu hút các doanh nghiệp đầu tư lớn vào lĩnh vực lâm nghiệp.

Việc sắp xếp các công ty lâm nghiệp còn chậm, do chờ các cơ quan trung ương ban hành hướng dẫn chung trên cả nướctrước khi xem xét, phê duyệt phương án của tỉnh Quảng Ninh.

Các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu

Với mục tiêu xây dựng ngành lâm nghiệp Quảng Ninh trở thành một ngành kinh tế - kỹ thuật theo hướng phát triển bền vững; ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại để phát huy vai trò và tác dụng của rừng vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, … tạo việc làm và thu nhập cho người dân, giữ vững quốc phòng và an ninh. Đến 2025, tăng giá trị sản xuất bình quân 8%/năm, tăng trưởng khoảng 5,5%/năm.

Giai đoạn 2022-2025, tỉnh thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng năng suất rừng trồng từ 10 m 3 /ha hiện nay lên 15 m 3 /ha; sản lượng khai thác gỗ rừng trồng bình quân khoảng 400.000/năm; sản lượng Nhựa thông từ 2.500 tấnlên 3.000 tấn/năm; sản lượng các lâm sản ngoài gỗ khác và dược liệu từ 3.500 tấn lên 4.000/tấn/năm. Phát triển dịch vụ môi trường rừng để thu dịch vụ môi trường rừng tăng bình quân 5%/năm.

Đến năm 2025 có 5.000 ha rừng Lim, Giổi trên địa bàn tỉnh; tỷ lệ lao động làm việc trong lâm nghiệp được đào tạo nghề đạt 45% ; có 50% số hộ miền núi, người dân tộc thiểu số sống ở vùng có rừng tham gia sản xuất lâm nghiệp hàng hóa; khoảng 60.000 - 70.000 người có việc làm với mức thu nhập bình quân 6 triệu đồng/lao động/tháng.

Ổn định tỷ lệ che phủ của rừng 55% và nâng cao chất lượng rừng, 100% diện tích rừng của các chủ rừng là tổ chức được quản lý bền vững; nâng cao hiệu quả bảo tồn đa dạng sinh học và năng lực phòng hộ của rừng; giảm thiểu tối đa các vụ vi phạm pháp luật về lâm nghiệp. Duy trì và mở rộng các khu bảo tồn hiện có, xem xét nâng cấp các Khu dự trữ thiên nhiên và Khu bảo tồn hiện, thành lập thêm 02 Khu bảo tồn Loài - Sinh cảnh.

Do vậy, các nhiệm vụ giải pháp chủ yếu được tỉnh chú trọng để thực hiện mục tiêu là: Chủ động các phương án phòng cháy, chữa cháy rừng với phương châm “4 tại chỗ”. Nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho lực lượng bảo vệ rừng, các chủ rừng; triển khai ứng dụng những hệ thống, thiết bị công nghệ thông minh trong lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy rừng; theo dõi, giám sát tài nguyên rừng và đất lâm nghiệp.

Hạn chế tối đa việc chuyển mục đích sử dụng bãi triều , rừng ngập mặn tạo quỹ đất phát triển rừng ngập mặn để phát triển hệ thống rừng cảnh quan du lịch biển. Triển khai thực hiện các loại hình dịch vụ được cung ứng từ rừng để tái đầu tư phát triển rừng ngập mặn.Đẩy nhanh tiến độ giao đất, giao rừng theo Đề án được phê duyệt.

Triển khai các phương án quản lý rừng bền vững và cấp chứng chỉ rừng, đưa mục tiêu cấp chứng chỉ rừng vào kế hoạch phát triển lâm nghiệp hằng năm.Thiết lập hệ thống giám sát và đánh giá tài nguyên rừng; ứng dụng công nghệviễn thám và hệ thống thông tin địa lý (GIS), công nghệ thông tin trong quản lý ngành lâm nghiệp; điều tra, đánh giá tài nguyên rừng.

Khách du lịch thăm rừng ngập mặn.

Ưu tiên trồng rừng gỗ lớn với diện tích 24.000 ha cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, đáp ứng cơ bản nhu cầu nguyên liệu cho chế biến gỗ và lâm sản; chuyển hóa trên 10.000 ha rừng Keo gỗ nhỏ trên địa bàn các huyện Ba Chẽ, Cẩm Phả, Hải Hà, Hạ Long và Tiên Yên.

Đầu tư xây mới1 vườn ươm giống có công suất trên 10 triệu cây/năm. Nâng cấp mở rộng hệ thống 08 vườn ươm hiện có theo hướng hiện đại. Nâng cấp cơ sở nuôi cấy mô, mua sắm bổ sung trang thiết bị phục vụ sản xuất cây vô tính tiến tới chủ động về giống và chất lượng cây lâm nghiệp phục vụ trồng rừng vào năm 2025 (10.000 - 12.000 ha/năm) phục vụ trồng rừng.

Khai thác hiệu quả diện tích rừng Thông nhựa hiện có. Khuyến khích phát triển các cây lâm sản ngoài gỗ có giá trị kinh tế cao (Hồi, Quế, Ba kích, các dược liệu khác). Phát triển cây Hồi trên diện tích 7.000 ha; cây Quế 3.790 ha tại các huyện Bình Liêu, Hải Hà, Đầm Hà, Tiên Yên, Ba Chẽ; cây Ba kích 2.170 ha tại Bình Liêu, Hải Hà, Đầm Hà, Tiên Yên, Ba Chẽ, Hoành Bồ; cây Sở 1.700 ha tại Bình Liêu, Tiên Yên; Cây Trà hoa vàng 1.500 ha tại Ba Chẽ

Không chuyển mục đích rừng tự nhiên sang mục đích khác (trừ các dự án đảm bảo tiêu chí theo quy định); sử dụng bền vững tài nguyên đa dạng sinh học, các nguồn gen, loại sinh vật và hệ sinh thái rừng. Phát huy tối đa các dịch vụ lâm nghiệp, dịch vụ môi trường rừng để tạo nguồn thu; đẩy mạnh các nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng, các dịch vụ mới, nhất là dịch vụ du lịch sinh thái, dịch vụ hấp thụ các-bon.

Thực hiện chuyển đổi các cơ sở chế biến lâm sản trên địa bàn theo hướng giảm số lượng các cơ sở chế biến thô, tăng dần các cơ sở chế biến sâu, hiện đại. Giảm các cơ sở chế biến lâm sản nhỏ, lẻ xuống còn dưới 250 cơ sở.Kêu gọi nhà đầu tư và thực hiện chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với các nhà đầu tư sản xuất, chế biến gỗ hiện đại. Thực hiện di dời các cơ sở chế biến vào các cụm công nghiệp đã hoạt động. Phát triển công nghiệp chế biến gỗ theo hướng chuyên sâu, hiện đại, thông minh gắn với quy hoạch vùng nguyên liệu và các khu công nghiệp, cụm công nghiệp chế biến gỗ trên địa bàn tỉnh.

Phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ như: thiết bị chế biến gỗ, keo, sơn phủ bề mặt, phụ kiện, logotic… Nâng cao chất lượng, đa dạng hóa mẫu mã sản phẩm chế biến phù hợp nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.Sớm hỗ trợ các thủ tục để Công ty TNHH An Việt Phát hoàn thành đầu tư 02 nhà máy chế biến lâm sản tại huyện Ba Chẽ.

Đồng thời, tỉnh Quảng Ninh cũng đề xuất x ây dựng chương trình phát triển thương hiệu lâm sản Quảng Ninh , đăng ký với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép Quảng Ninh thu hút, đầu tư 01 Khu Lâm nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong giai đoạn từ nay đến năm 2025, định hướng tại khu vực miền Đông của tỉnh.Đề nghịmở rộng phạm vi áp dụng một số chính sách đặc thù khuyến khích phát triển lâm nghiệp bền vững theo Nghị quyết 337/2021/HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh để phù hợp với điều kiện thực tiễn, khuyến khích trồng rừng cây bản địa, gỗ lớn trên địa bàn toàn tỉnh và thí điểm mở rộng đối tượng chủ rừng là tổ chức, doanh nghiệp được hỗ trợ cây giống trồng rừng với các loài Lim xanh, Giổi, Lát./.

Phạm Quỳnh