Đi đầu trong công cuộc đổi mới sáng tạo của vùng đồng bằng Bắc Bộ, một cực tăng trưởng của khu vực phía Bắc
Theo Báo cáo Chính trị trình Đại hội, thành tựu nổi bật của tỉnh Quảng Ninh trong nhiệm kỳ 2020 – 2025 là: Tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức cao, ước tăng 10,4%/năm (đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra), gấp 1,7 lần so với bình quân chung cả nước. Quy mô kinh tế tăng nhanh, năm 2025 ước đạt khoảng 395.000 tỷ đồng, gấp 1,9 lần so với năm 2020. GRDP bình quân đầu người năm 2025 ước đạt trên 11.000 USD, gấp 2,24 lần bình quân chung cả nước, gấp 1,6 lần năm 2020. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn luôn nằm trong nhóm địa phương đứng đầu cả nước.
Bên cạnh đó, chỉ số phát triển bền vững cấp tỉnh (PSDI) và chỉ số xanh cấp tỉnh (PGI) luôn nằm trong nhóm các địa phương dẫn đầu cả nước. Tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giai đoạn 2021 - 2025 ước đạt 23%/năm, là động lực tăng trưởng chính trong cả nhiệm kỳ. Tổng vốn thu hút FDI giai đoạn 2021 - 2025 ước đạt 9,77 tỷ USD, cao gấp 5,1 lần so với giai đoạn 2016 - 2020. Bước đầu hình thành chuỗi công nghiệp quy mô lớn, có khả năng cạnh tranh quốc tế như: dệt công nghệ cao, sản xuất ô tô, xe điện, cơ khí chế tạo, lắp ráp thiết bị điện, điện tử... Ngành than tiếp tục giữ vững vai trò là một trụ cột kinh tế của tỉnh, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Giai đoạn 2021-2025, tổng sản lượng than sạch ước đạt 219 triệu tấn, tăng 12,7% so với giai đoạn 2016 - 2020; tăng trưởng ngành khai khoáng ước đạt 4,47%/năm, chiếm tỷ trọng 19 - 20% GRDP, đóng góp khoảng 40% thu ngân sách nội địa.
Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng trưởng khá; tổng trị giá hàng hóa xuất khấu của doanh nghiệp trong tỉnh 05 năm ước đạt trên 16 tỷ USD, tăng 11,2%/năm. Khu kinh tế ven biển Quảng Yên trở thành hạt nhân, động lực tăng trưởng mới của tỉnh; tổng vốn thu hút FDI trong 5 năm đạt 4,75 tỷ USD, chiếm 45,9% tổng vốn thu hút toàn tỉnh. Tổng doanh thu dịch vụ cảng biển tăng 17,4%/năm, đến hết năm 2025 ước đạt trên 25.800 tỷ đồng; tổng sản lượng hàng hoá thông qua cảng 5 năm ước đạt 627,7 triệu tấn; ước đạt 124,1 triệu tấn/năm; tổng lưu lượng hành khách vận tải biển ước đạt trên 293.000 lượt khách.
Hạ tầng giao thông được đầu tư đồng bộ, hiện đại, liên thông tổng thể. Đã hoàn thành đưa vào khai thác 825Km đường bộ, trong đó có 80,2Km đường cao tốc Vân Đồn - Móng Cái, góp phần mở rộng không gian phát triển, thúc đẩy liên kết vùng, nội vùng, phát triển hệ thống giao thông đường thủy nội địa. Tỉnh hoàn thành sớm 02 năm chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025 ở cả 3 cấp tỉnh, huyện, xã; về đích trước 03 năm Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025 và không còn hộ nghèo, cận nghèo theo chuẩn nghèo của tỉnh (cao gấp 1,4 lần chuẩn nghèo của Trung ương về tiêu chí thu nhập).
Diện mạo, cảnh quan, đô thị, nông thôn thay đổi rõ nét. Quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm; chủ quyền an ninh biên giới, biển đảo quốc gia được giữ vững, tuyệt đối không để xảy ra tình huống bị động, bất ngờ; xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác, phát triển. Hoạt động đối ngoại được chú trọng mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu.

Phát triển du lịch, dịch vụ tổng hợp hiện đại giữ vai trò trụ cột quan trọng trong phát triển kinh tế; trở thành trung tâm logistics, cửa ngõ trung chuyển vận tải đa phương thức kết nối với Trung Quốc, Đông Bắc Á và ASEAN. (Ảnh: Cảng Cái Lân)
Đặc biệt, Quảng Ninh còn sớm thực hiện miễn học phí cho học sinh mẫu giáo và phổ thông các cấp từ năm học 2021 - 2022 đến nay. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia đến hết năm 2024 là 91,91 % cao hơn toàn quốc, về đích trước 02 năm so với chỉ tiêu nghị quyết. Phổ cập giáo dục, xóa mù chữ đạt chuẩn mức cao nhất. Kết quả thi tốt nghiệp THPT cải thiện rõ rệt, thi chọn học sinh giỏi cấp quốc gia THPT liên tiếp 04 năm tăng cao, trong đó năm 2024, 2025 đứng thứ 8 cả nước. Đồng thời cũng là tỉnh đi đầu triển khai các kỹ thuật cao, chuyên sâu tuyến trung ương về y tế. Các chỉ tiêu y tế đều cao hơn so với cả nước, đạt chỉ tiêu nghị quyết đề ra. Tỷ lệ chuyển tuyến của người bệnh duy trì ở mức thẩp so với bình quân chung cả nước.
Tuy nhiên, Quảng Ninh cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém, nhất là việc một số cấp ủy, đảng viên, cán bộ chủ chốt của tỉnh, trong đó có người đứng đầu bị kỷ luật do vi phạm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện quản lý đất đai, đầu tư công.

Ngành than tiếp tục giữ vững vai trò là một trụ cột kinh tế của tỉnh, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia (Ảnh: Công trường khai thác than).
Nhìn lại hành trình 40 năm đổi mới, tỉnh Quảng Ninh tự hào khẳng định: Đã giành được những thành tựu to lớn, nhiều mặt nổi bật, mang tính tiên phong và đột phá, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. Tỉnh đã đưa công cuộc đổi mới toàn diện đi vào chiều sâu, chuyển đổi phương thức phát triển từ "nâu" sang "xanh", chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, bền vững hơn. Phát triển dịch vụ tổng hợp hiện đại ngày càng giữ vai trò chủ đạo; du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn gắn với phát triển bền vững kinh tế biển. Tạo bứt phả về tốc độ phát trỉển các hạ tầng chiến lược, nhất là hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại liên thông, tổng thể. Tạo đột phá về chất lượng cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; cho đến nay, Quảng Ninh là tỉnh duy nhất nhiều năm liền dẫn đầu về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và các chỉ số chính quyền liêm chính, kiến tạo, hành động phục vụ Nhân dân. Quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm; hoạt động đối ngoại được mở rộng; xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác và phát triển.
Duy trì "vị trí dẫn đầu" trong đổi mới sáng tạo, quản trị phát triển, thúc đẩy kinh tế tư nhân và hội nhập quốc tế
Giai đoạn 2026 – 2030, tỉnh Quảng Ninh xác định mục tiêu: Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân đạt 12%/năm; GRDP bình quân đầu người đến năm 2030 đạt trên 20.000 USD. Tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong GRDP đến năm 2030 đạt 30%. Phấn đấu thành lập mới trên 2.000 doanh nghiệp/năm. Phấn đấu chỉ số phát triển con người (HDI) của tỉnh ở nhóm 5 tỉnh, thành phố đứng đầu cả nước; tuổi thọ trung bình người dân trên 77 tuổi. Toàn tỉnh không còn hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia. Đến hết năm 2030: 30% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, 15% số xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu…
Để hiện thực hóa các mục tiêu trên, Đại hội đã đề ra 5 nhiệm vụ trọng tâm, 3 đột phá và 4 nhóm giải pháp chủ yếu.
Đồng thời, tạo đột phá trong hoàn thiện đồng bộ kết cấu hạ tầng công nghệ thúc đẩy phát triển kinh tế số, du lịch biển, kinh tế biển, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, phát triển Đặc khu Vân Đồn và cửa khẩu thông minh tại Móng Cái. Phát triển nền văn hóa giàu bản sắc Quảng Ninh, gắn với xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa, kinh tế di sản, kinh tế đêm.

Tập trung phát triển vịnh Hạ Long trở thành "vịnh Sáng tạo" góp phần nâng cao giá trị Di sản - Kỳ quan. (Ảnh: Vịnh Hạ Long).
Về phía các giải pháp chủ yếu, tỉnh Quảng Ninh nhấn mạnh công tác tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và đạo đức. Chú trọng xây dựng Đảng về cán bộ gắn với tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng; đẩy mạnh, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Đáng chú ý, Quảng Ninh sẽ tạo đột phá trong thu hút có chọn lọc nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các khu công nghiệp, khu kinh tế, ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, sạch, quản trị hiện đại, có quy mô lớn, giá trị gia tăng và sức lan tỏa cao, kết nối với chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Phát triển ngành công nghiệp chế biến chế tạo (công nghiệp bán dẫn, ô tô, thiết bị năng lượng tái tạo, công nghiệp đường sắt...) trở thành một trụ cột chính trong phát triển kinh tế; xây dựng Quảng Ninh trở thành một trong những trung tâm chế biến, chế tạo công nghệ cao. Đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, hình thành các cụm liên kết ngành công nghiệp tại Khu kinh tế ven biển Quảng Yên, Đặc khu Vân Đồn, Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái và tăng cường hợp tác thu hút đầu tư, phát triển sản xuất giữa các khu vực.
Mặt khác, quan tâm phát triển du lịch, dịch vụ tổng hợp hiện đại giữ vai trò trụ cột quan trọng trong phát triển kinh tế; trở thành trung tâm logistics, cửa ngõ trung chuyển vận tải đa phương thức kết nối với Trung Quốc, Đông Bắc Á và ASEAN. Trong đó, phát triển du lịch theo hướng "giảm lượng, tăng chất" để Quảng Ninh trở thành một trong những trung tâm du lịch hàng đầu của cả nước, là cửa ngõ hợp tác, kết nối du lịch của vùng đồng bằng Sông Hồng và cả nước với thế giới theo hướng phát triển kinh tế đêm, kinh tế di sản, công nghiệp văn hóa. Tập trung phát triển vịnh Hạ Long trở thành "vịnh Sáng tạo" góp phần nâng cao giá trị Di sản - Kỳ quan. Xây dựng khu du lịch quốc gia Yên Tử, Vân Đồn - Cô Tô. Phát triển Đặc khu kinh tế Vân Đồn trở thành một động lực đột phá trong phát triển tỉnh Quảng Ninh, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế Vùng.
Ngoài ra, coi trọng phát triển thủy sản trở thành ngành mũi nhọn; kết hợp nuôi trồng với khai thác thủy, hải sản công nghệ cao, hiệu quả, bền vững, bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Phát triển các vùng nuôi biển tập trung theo quy hoạch, tăng cường ứng dụng công nghệ hiện đại; gắn sản xuất với chế biến sâu và tiêu thụ sản phẩm; hoàn chỉnh hệ thống hậu cần nghề cá, nuôi biển, chế biến đồng bộ, hiện đại, phấn đấu từng bước trở thành trung tâm thủy sản miền Bắc.
Đưa kinh tế biển phát triển theo hướng biển bền vững đa mục tiêu để Quảng Ninh trở thành trung tâm kinh tế biển mạnh có tầm quốc tế hàng đầu ở Đông Nam Á gắn với các khu kinh tế ven biển, đô thị biển - ven biển dạng dải, qua đó phát huy hiệu quả các khu kinh tế và vùng du lịch vịnh Hạ Long - Bái Tử Long - Vân Đồn - Cô Tô, trở thành trung tâm du lịch nghỉ dưỡng, giải trí, du lịch di sản thiên nhiên biển đảo có tầm quốc tế.

Đường cao tốc Vân Đồn - Móng Cái, góp phần mở rộng không gian phát triển.
Cùng đó, quyết liệt thực hiện đột phá về ứng dụng, phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sảng tạo và chuyển đổi số; tạo bước chuyển căn bản về chất lượng, hiệu quả chuyển đổi số toàn diện trong công tác quản lý, điều hành và trong các ngành, lĩnh vực: y tế, giáo dục, du lịch, giao thông vận tải, thương mại, công nghiệp, xuất nhập khẩu, ngân hàng, tài chính, nông nghiệp, thủy sản, dược liệu.
Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ mới, công nghệ cao; thu hút đầu tư, xây dựng các phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu và phát triển khoa học, công nghệ. Hình thành các Trung tâm khám phá khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo tại Hạ Long, Quảng Yên, Vân Đồn và Móng Cái; Khu công nghiệp công nghệ số - Hạ Long ICT Park; hình thành 1-2 khu công nghệ cao, các trung tâm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Phấn đấu đến năm 2030, tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong GRDP chiếm 30%; đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế ở mức trên 55%, đưa Quảng Ninh thuộc nhóm các địa phương dẫn đầu cả nước về chuyển đổi số toàn diện.
Phạm Quỳnh
Nguồn ảnh Internet dùng để minh họa